Người học Phật phải lấy NGŨ CĂN làm thành NGŨ LỰC (Tín - Tấn - Niệm - Định - Tuệ) để làm nền tảng cho cả quá trình tu tập. TÍN đứng đầu tiên nên việc có lòng TIN vào Đức Phật và Giáo pháp của Đức Phật cũng cần được xác tín đầu tiên. Vậy cũng nên đọc những bài về Đức Phật để tăng và duy trì đức TÍN. Xin trích một số phần trong sách Đức Phật và Phật pháp để tiện cho người chưa có thời gian đọc sách này.
"Một Chúng Sanh duy nhất, một Con Người phi thường, xuất hiện trong thế gian này, vì lợi ích cho phần đông, vì hạnh phúc của phần đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc của chư Thiên và nhân loại." -- Kinh Tăng chi bộ
"Một Chúng Sanh duy nhất, một Con Người phi thường, xuất hiện trong thế gian này, vì lợi ích cho phần đông, vì hạnh phúc của phần đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc của chư Thiên và nhân loại." -- Kinh Tăng chi bộ
Đản Sanh
Nhằm ngày trăng tròn tháng năm 2, năm 623 3
trước D.L., trong vườn Lumbini 4 (Lâm Tỳ Ni) tại Kapilavatthu (Ca Tỳ
La Vệ) 5 bên ranh giới Ấn Độ của xứ Nepal ngày nay, có hạ sanh một
hoàng tử mà về sau trở thành vị giáo chủ vĩ đại nhất trên thế gian.
Cha hoàng tử là Đức Vua Suddhodana 6 (Tịnh Phạn)
thuộc quý tộc Sakya (Thích Ca) 7 và mẹ là Hoàng Hậu Maha Maya
(Ma Da). Sau khi hạ sanh hoàng tử
được bảy ngày thì hoàng hậu thăng hà. Em bà là Maha Pajapati Gotami, cũng cùng
kết duyên với Vua Tịnh Phạn, thay thế bà để dưỡng dục hoàng tử và gởi con là
Nanda cho một bà vú nuôi chăm sóc.
Khi tin lành hoàng tử chào đời được loan truyền trong dân gian, tất cả
thần dân trong vương quốc đều vui mừng không xiết kể.
Thuở ấy có
một đạo sĩ tên Asita (A Tư Đà), cũng được gọi là Kaladevala đặc biệt hoan hỷ.
Ông là một người thân tín của nhà vua nên xin được vào thăm
hoàng tử. Đức
Vua Tịnh Phạn lấy làm hân hoan, cho bồng hoàng tử ra đảnh lễ đạo sĩ. Nhưng,
trước sự kinh ngạc của mọi người, hoàng tử bỗng nhiên quay về phía đạo sĩ và
đặt hai chân lên đầu tóc của ông.
Đang ngồi
trên ghế, vị đạo sĩ vội vã chỗi dậy, chắp tay xá chào hoàng tử 8.
Ông tiên tri rằng về sau hoàng tử sẽ trở nên bậc vĩ nhân cao quý nhất của nhân
loại. Đức vua cũng làm theo đạo sĩ, xá chào hoàng tử.
Xong rồi
đạo si thoạt tiên cười khan, cười rồi lại khóc. Mọi người đều ngạc nhiên trước
những cảm xúc vui buồn lẫn lộn của ông. Vị đạo sĩ giải thích rằng ông cười vì
lấy làm hoan hỷ được biết rằng về sau hoàng tử sẽ đắc Quả Phật, và ông khóc vì
biết rằng không bao lâu nữa ông sẽ chết và tái sanh vào cảnh giới Vô Sắc (Arupa-loka)
9. Do đó ông sẽ không được phước lành thọ giáo với bậc trí tuệ cao
minh, Chánh Đẳng Chánh Giác.
---o0o---
Lễ Quáng Đính (đặt tên)
Khi hoàng tử được năm ngày, Đức Vua Tịnh Phạn đặt tên là Siddhattha
(Sĩ Đạt Ta) có nghĩa là người được toại nguyện. Gotama (Cồ Đàm) là họ Ngài 10.
Theo phong tục thời bấy giờ, vua cho thỉnh nhiều vị đạo sĩ Bà La Môn học rộng
tài cao vào triều nội để dự lễ đặt tên cho hoàng tử. Trong các đạo sĩ, có tám
vị đặc biệt lỗi lạc. Sau khi quan sát đặc tướng của hoàng tử, bảy vị đưa lên
hai ngón tay và giải thích rằng có hai lẽ. Một, là hoàng tử sẽ trở nên vị hoàng
đế vĩ đại nhất thế gian. Hai, là Ngài sẽ đắc Quả Phật. Nhưng vị đạo sĩ trẻ tuổi
và thông minh nhất trong tám vị, tên Kondanna 11 (Kiều Trần Như),
chỉ đưa lên một ngón quả quyết rằng ngày
kia hoàng tử sẽ hoàn toàn thoát tục và đắc Đạo Quả Phật.
Lễ Hạ Điền
Một sự kiện lạ lùng đã xảy ra trong thời thơ ấu của Hoàng Tử
Siddhattha (Sĩ Đạt Ta). Sự kiện ấy là một kinh nghiệm tinh thần sẽ giúp hoàng
tử thật nhiều sau này, khi Ngài quyết tâm tìm chân lý. Sự kiện ấy cũng là cái
chìa khoá mở đường cho Ngài tiến đến
Giác Ngộ 12.
Lúc bấy giờ,
để khuyến khích nông dân, Vua Tịnh Phạn ra lệnh tổ chức một cuộc lễ gọi là Hạ
Điền. Đây quả thật là một cơ hội cho tất cả, giàu như
nghèo, sang
như hèn, ăn mặc tốt đẹp để vui chơi hỷ hạ một bữa, trước khi bắt tay vào công
việc ruộng nương đồng áng. Sáng ngày, đức vua cùng quần thần, áo mặc chỉnh tề,
ra tận nơi hành lễ. Hoàng Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) cũng được cung phi mỹ nữ
đặt trong một cái kiệu, màn che sáo phủ, khiêng ra để dưới bóng mát một cội
trâm. Hôm ấy đức vua chủ tọa một buổi lễ. Thấy mọi người vui vẻ theo dõi cuộc
vui, các cung phi có phận sự trông nom hoàng tử cũng lén chạy đi xem. Trái hẳn
với cảnh nhộn nhịp tưng bừng của buổi lễ, tàng bóng mát mẻ dưới cội trâm và khung cảnh êm đềm như mời mọc tĩnh lặng quán
niệm. Hoàng tử tuổi tuy còn nhỏ nhưng tâm trí đã thuần thục.
Khác với
những người chỉ biết tìm thích thú trong cuộc lễ, hoàng tử nối tréo hai chân
lại theo lối kiết già, trầm ngâm lặng lẽ, chăm chú vào hơi thở-vào, thở-ra, gom
tâm an trụ, định, và đắc Sơ Thiền 13.
Giữa lúc mọi
người vui vẻ thưởng thức, các cung phi bỗng sực nhớ lại hoàng tử, vội vã trở về
với phận sự. Khi thấy hoàng tử ngồi trầm ngâm hành thiền thì họ lấy làm ngạc
nhiên, đến tâu lại tự sự cho vua. Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) hối hả đến
nơi, thấy Hoàng Tử Siddhattha vẫn ngồi tham thiền. Đức vua đến trước mặt hoàng
tử, xá chào con và nói: "Hỡi này con yêu quý, đây là lần thứ nhì, phụ
vương đảnh lễ con".
Giáo Dục
Mặc dầu kinh sách không chép rõ, Hoàng Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) chắc
chắn đã hấp thụ một nền giáo dục vững chắc vì Ngài là hoàng tử của một quốc gia
giàu mạnh. Ngài cũng thuộc dòng chiến sĩ nên chắc chắn phải lão thông binh pháp
và võ nghệ cao cường.
Kết Hôn
Khi lên mười sáu, theo phong tục thời bấy giờ, hoàng tử kết duyên cùng
Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà la) 14, một người em cô cậu, cũng cùng
tuổi với Ngài. Trong mười ba năm sau ngày hôn lễ, Ngài sống hoàn toàn cuộc đời
vương giả, không hay biết chi đến nỗi thống khổ của nhân loại bên ngoài ngưỡng
cửa cung điện.
Về cuộc đời
nhung lụa ấy, khi còn là hoàng tử, đã có lần Ngài nói:
"Đời
sống của ta thật là tế nhị, vô cùng tinh vi. Trong hoàng cung, chỗ ta ở, phụ
hoàng có đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh đua nhau khoe màu ở đây thì
sen đỏ vươn mình phô sắc phía bên kia, và trong đầm bên cạnh, sen trắng đua
nhau tranh đẹp dưới ánh nắng ban mai. Trầm hương của ta dùng đều là loại thượng
hảo hạng từ xứ Kasi đưa về. Khăn và xiêm áo của ta cũng may toàn bằng hàng lụa
bậc nhất từ Kasi 15 chở đến.
Ngày cũng như
đêm, mỗi khi ta bước chân ra khỏi cung điện là có tàng lọng che sương đỡ nắng.
Phụ hoàng
cũng kiến tạo riêng cho ta ba tòa cung điện. Một, để cho ta ở mùa lạnh, một,
mùa nóng và một, mùa mưa. Trong suốt bốn tháng mưa ta lưu ngụ tại một biệt điện có đầy đủ tiện nghi,
giữa những cung tần phi nữ. Cho đến hàng nô tỳ của phụ hoàng cũng được ăn sung
mặc sướng chớ không phải như ở các nhà
khác, gia đình chỉ được ăn cơm xấu và thức ăn cũ. 16"
Thời gian trôi qua, Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) càng trưởng thành, ánh
sáng chân lý càng rọi rõ sự vật cho Ngài.
Bẩm tánh trầm
tư mặc tưởng và lòng từ bi vô lượng vô biên của Ngài không để yên cho Ngài một
mình an hưởng những lạc thú tạm bợ của đời vương giả. Riêng mình được yên vui
hạnh phúc, nhưng Ngài hằng nghĩ đến thực chất của đời sống và biết rằng nhân
loại đang đau khổ bên ngoài cung điện, nên Ngài luôn luôn thương xót.
Sống trong nhung lụa mà Ngài
nhận định được rằng đời là đau khổ.
---o0o---
Xuất Gia
Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta)
suy niệm như sau:
"Chính
ta phải chịu cảnh sanh, già, bệnh, chết, phiền não và ô nhiễm. Tại sao vẫn còn
mải mê chạy theo tìm những điều mà bản chất cũng còn như vậy. Vì chịu sanh,
lão, bệnh, tử, phiền não và ô nhiễm, ta đã nhận thức sự bất lợi của những điều
ấy. Hay ta thử tìm cái chưa được thành đạt, trạng thái tối thượng và tuyệt đối
châu toàn: Niết Bàn! 17"
"Cuộc
sống tại gia rất tù túng chật hẹp, là chỗ ẩn náu của bụi trần ô trược, nhưng
đời của bậc xuất gia là cảnh trời mênh mông bát ngát! Người đã quen với nếp
sống gia đình ắt thấy khó mà chịu đựng Đời Sống Đạo Hạnh Thiêng Liêng, với tất
cả sự hoàn hảo và trong sạch của nó. 18"
Một ngày vẻ
vang kia, thái tử ra khỏi hoàng cung để nhìn xem thế gian bên ngoài và trực
tiếp tiếp xúc với sự thật phũ phàng của đời sống. Trong phạm vi nhỏ hẹp của
cung điện, Ngài chỉ thấy phần tươi đẹp, nhưng đám đông nhân loại thì biết bề
đen tối, đáng ghê sợ của đời. Chính cặp mắt quan sát của thái tử đã nhận thấy
một cụ già chân mỏi gối dùn, một người bệnh hoạn đau khổ, một thây ma hôi thúi
và một đạo sĩ nghiêm trang khả kính 19. Ba cảnh già, bệnh và chết,
hùng hồn xác nhận quan điểm của thái tử về đời sống đau khổ của nhân loại. Hình
ảnh thong dong từ tốn của nhà tu sĩ thoáng cho Ngài hé thấy con đường giải
thoát, con đường an vui hạnh phúc thật sự. bốn quang cảnh bất ngờ ấy càng thúc
giục thái tử ghê tởm và sớm thoát ly thế tục.
Nhận định rõ
ràng rằng những thú vui vật chất mà phần
đông tranh nhau tìm kiếm đều không thể đem lại lợi ích, chỉ có sự xuất gia, sự
từ bỏ tất cả mùi danh bã lợi của trần gian này mới thật là chân giá trị, Thái
Tử Siddhattha nhất định rời bỏ cung điện đền đài để ra đi, tìm chân lý và An
Dưỡng Trường Cửu.
Giữa lúc ấy thì có tin đưa đến rằng Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La), vợ
Ngài, vừa hạ sanh hoàng nam.
Đối với thế
gian, đó là một tin lành. Nhưng, trái hẳn với mọi dự đoán, Ngài không quá đỗi
vui mừng vì thấy đó là thêm trở ngại. Thế thường, khi sanh được người con
đầuloq, cha mẹ cảm nghe trong lòng
chớm nở lần đầu tiên một tình thương mặn nồng sâu sắc, một tình thương mới mẻ
đậm đà, vô cùng trong sạch. Nỗi vui mừng của người làm cha đầu tiên thật không
sao tả được. Nhưng Thái Tử Siddhattha không phải là một người cha thường, Ngài
than: "Lại thêm một trở ngại, lại thêm một dây trói buộc". Do đó, Đức
Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) đặt tên
cháu nội là Rahula (La Hầu La) 20.
Đời vương giả
không còn thích hợp với vị Phật tương lai nữa. Đối với một tâm hồn trầm tư mặc
tưởng như Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta), cung điện nguy nga không còn là nơi
thích đáng. Cả đến người vợ trẻ đẹp và người con sơ sinh dễ mến cũng không làm
sờn ý chí quyết định từ bỏ thế gian. Ngài ra đi với nguyện vọng góp một phần vô
cùng quan trọng và hữu ích hơn là
phận sự của
một người chồng, người cha, hay chí đến nhiệm vụ làm chúa tể các vì vua đi nữa.
Cung vàngđiện ngọc không còn sức quyến rũ. Ngài không tìm thấy thích thú trong
đời sống vương giả. Giờ ra đi đã điểm.
Ngài truyền
lệnh cho Channa (Xa Nặc), người đánh xe yêu chuộng, thắng yên ngựa Kanthaka
(Kiền Trắc) và thẳng đến điện của công chúa. Ngài khẽ hé cửa nhìn vợ và con
đang yên giấc với một tấm lòng từ ái nhưng bình thản, không chao động, không
trìu mến. Tình thương đối với vợ, con thật mặn nồng sâu sắc. Nhưng đối với nhân
loại trầm luân đau khổ, lòng trắc ẩn của Ngài lại càng thâm thậm vô ngần. Ra
đi, Ngài không lo sợ cho tương lai của công chúa và hoàng tử, vì biết chắc chắn
rằng vợ và con sẽ có đầy đủ tiện nghi và đảm bảo để sống an toàn và sung sướng.
Ra đi, không phải vì kém tình thương vợ, thương con, mà vì tình thương của Ngài
mở rộng cho mọi người, bao trùm tất cả nhân loại và chúng sanh.
Với một tâm
hồn thanh thoát, Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) ra đi giữa đêm khuya, để lại
sau lưng tất cả đền đài cung điện, người cha yêu quý, vợ đẹp, con thơ, và cả
một tương lai huy hoàng rực rỡ. Ngài trốn ra khỏi thành và giục ngựa thẳng xông
trong đêm tối. Cùng đi với Ngài chỉ có Channa (Xa Nặc), người đánh xe trung
thành. Không tiền của, không cửa nhà, nay đây mai đó, Ngài bắt đầu lần bước
trên đường đi tìm Chân Lý và An Tĩnh. Thế
là Ngài từ bỏ thế gian.
Đây không phải
là sự từ bỏ của một cụ già đã trải qua hầu hết cuộc đời của mình, hay của người
bần cùng nghèo đói không còn gì để bỏ lại phía sau, nhưng là sự khước từ của
một hoàng tử vinh quang giữa thời niên thiếu, trong cảnh ấm no, sung túc và
thạnh vượng. Một sự thoát ly chưa từng có trong lịch sử.
Lúc ấy thái tử
Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) được 29 tuổi.
Đến sáng hôm
sau Ngài đi đã xa. Sau khi Ngài vượt qua sông Anoma, Ngài dừng bước trên bãi
cát, tự cạo râu tóc và trao xiêm y lại cho Channa (Xa Nặc) đem về. Rồi khoác
lên mình tấm y vàng, Hoàng tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) tự nguyện sống đời tu sĩ
và sẵn sàng chấp nhận mọi thiếu thốn vật chất.
Từ một hoàng
tử giàu sang vinh hiển tột bậc, Ngài trở thành đạo sĩ nghèo nàn, không tiền
của, không cửa nhà, sống nhờ lòng từ thiện của bá tánh thập phương.
Ngài không ở
nơi nào thường trực. Một cây cao bóng mát, hoặc một hang đá vắng vẻ hoang vu
nào cũng có thể che mưa đỡ nắng cho Ngài. Chân không giày dép, đầu không mũ nón, Ngài đi trong ánh nắng nóng bức và
trong sương gió lạnh lùng. Tâ;t cả xiêm y từ tốn chỉ là những mảnh vải vụn vằn
ráp lại, vừa đủ để che thân. Tất cả tài sản chỉ là một bình bát để trì bình
khất thực. Vật thực và bộ y chỉ vừa đủ để sống.
Ngài tận dụng thì giờ và năng lực trong việc khám phá chân
lý.
Tìm Chân Lý
Như người thênh thang bất
định, Ngài đi tìm cái chi tốt đẹp, trạng thái tuyệt đối vắng lặng. Ngài đến vị
đạo sĩ rất lỗi lạc, Alarama Kalama, và nói :
"Này
hỡi Đạo Hữu, xin Đạo Hữu cho tôi thọ giáo và sống đời đạo hạnh thiêng liêng
dưới sự hướng dẫn của Đạo Hữu."
Alarama Kalama
trả lời: "Hãy ở lại đây với tôi, hỡi người đáng kính, đường lối dạy dỗ ở
đây là giúp cho người thông minh sớm thấu triệt tất cả giáo lý của vị đạo sư
bằng trí tuệ trực giác, và sống ẩn náu trong sự thành đạt ấy."
Không bao
lâu sau, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) đã học hết giáo lý của thầy, nhưng không chứng
ngộ được chân lý cao thượng hằng mong mỏi.
Tư tưởng sau đây phát sanh đến Ngài :
"Khi
Alarama Kalama tuyên bố: 'Ta đã chứng ngộ giáo lý ấy bằng trí tuệ trực giác. Ta
đã sống ẩn náu trong sự thành đạt ấy', thì ắt đó không phải chỉ là một lời phát
biểu suông của ông. Chắc chắn Alarama Kalama đã thấu triệt, nhận chân giáo lý
này và đã sống trong ấy."
Rồi Ngài đến gặp Kalama và nói :
"Này Đạo
Hữu Kalama, giáo lý mà chính Đạo Hữu
đã chứng ngộ bằng trí tuệ trực giác sâu rộng đến mức nào?"
Alarama liền
giải thích rằng đó là cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ Thiên (Akincannayatana) 21,
cảnh giới có quan niệm về hư không, một tầng Thiền (Jhana) khá cao.
Và ý tưởng sau
đây phát sanh đến Ngài :
"Không
phải chỉ có một mình Alarama Kalama mới có hạnh tinh tấn, niệm, định và tuệ. Ta
cũng có những đức tánh ấy. Hay là ta hãy cố gắng chứng ngộ giáo lý mà Kalama
nói rằng chính ông ta đã chứng ngộ và ẩn náu trong sự thành đạt ấy."
Và sau đó không bao lâu, chính Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) cũng chứng ngộ và thành
đạt trạng thái ấy đó trí tuệ và trực giác.
Nhưng giáo lý
này không giúp Ngài thấu triệt chân lý tối thượng. Và Ngài đến gần Alarama và
nói :
- Này Đạo Hữu Kalama, có phải
đây là mức tận cùng của giáo lý mà Đạo
Hữu nói rằng Đạo Hữu đã chứng ngộ bằng trí tuệ trực giác và sống ẩn náu trong
sự thành đạt ấy chăng?
-
Đúng vậy, đây chính là giáo lý mà tôi nói rằng tôi đã chứng ngộ và ẩn náu trong sự thành đạt
ấy. Đây là mức sâu rộng tận cùng của chân lý.
-
Nhưng, hỡi Đạo Hữu, tôi cũng đã chứng ngộ đến mức này
và ẩn náu trong sự thành đạt ấy.
Vị đạo sư
không có lòng ganh tỵ, lấy làm hoan hỉ thấy đệ tử lỗi lạc của mình thành công
mau chóng, đặt Đạo Sĩ Gotama lên ngang hàng với mình cùng chung hưởng tất cả
vinh dự, và nói:
"Hỡi
này Đạo Hữu, tôi rất lấy làm hoan hỷ. Thật vậy, tôi thật vô cùng hoan hỷ được
gặp một người đồng tu đáng kính như Đạo Hữu. Giáo lý mà tôi đã chứng ngộ bằng
tuệ giác và đã tuyên bố thành đạt. Đạo Hữu cũng chứng ngộ bằng tuệ giác và ẩn
náu trong sự thành đạt ấy. Giáo lý mà Đạo Hữu chứng ngộ bằng tuệ giác và ẩn náu
trong sự thành đạt ấy, chính tôi cũng đã chứng ngộ bằng tuệ giác và đã tuyên bố
thành đạt. Như vậy, giáo lý mà tôi đã biết, Đạo Hữu cũng biết. Và giáo lý mà
Đạo Hữu biết, tôi cũng đã biết. Tôi như thế nào thì Đạo Hữu cũng như thế ấy. Vậy,
hãy đến đây, Đạo Hữu, chúng ta hãy cùng nhau hợp sức dẫn dắt nhóm đạo sĩ
này."
Đạo Sĩ
Gotama (Cồ Đàm) không thỏa mãn với một kỷ luật và giáo lý chỉ đưa đến tầng khá
cao của tâm định mà không dẫn đến
"trạng thái ghê tởm, buông xả (không
luyến ái), chấm dứt (mọi đau khổ),
tình trạng tĩnh lặng,
trực giác,
giác ngộ và Niết Bàn". Nguyện vọng của Ngài cũng không phải là dẫn dắt một
nhóm đạo sĩ, dầu là hợp sức với một đạo sư quảng đại khoan hồng cũng đã thành
đạt mức tiến bộ tinh thần như Ngài. Trước tiên, tự Ngài chưa làm cho mình được
toàn thiện và cảm nghĩ rằng như vậy không khác nào người mù dẫn dắt người mù.
Chưa được toại nguyện, Ngài từ giã Alarama Kalama ra đi.
Vào những ngày
thanh bình an lạc thuở bấy giờ, trong xứ không bị hoàn cảnh chánh trị làm xáo
trộn, hàng trí thức xứ Ấn Độ chỉ lo nghiên cứu học hỏi và truyền bá hệ thống
tôn giáo của mình. Xã hội cung ứng mọi dễ dàng những nơi vắng vẻ ẩn dật cho
người có khuynh hướng trở về với đời sống đạo đức. Phần lớn các vị này có một
số đông đệ tử, và Đạo Sĩ Gotama không gặp nhiều khó khăn trong việc tìm đạo sư.
Ngài đến thọ
giáo với một vị đạo sư trứ danh khác tên Uddaka Ramaputta. Không bao lâu, vị đệ
tử thông minh xuất chúng Gotama đã thấu triệt giáo lý của thầy và chứng đắc đệ
bát thiền Vô Sắc tức là tầng cao nhất của thiền Vô Sắc Giới: cảnh giới Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng, không còn tri giác (sanna, tưởng), mà cũng không có không-tri-giác (N'eva sanna N'asannayatana) 22,ấy
là tầng thiền cao nhất trong tam giới. Khi đắc được Thiền này, tâm trở nên vô
cùng tinh vi tế nhị đến nỗi không thể nói là có tâm hay không. Vào thời bấy giờ
không có ai đắc được thiền nào cao hơn nữa.
Vị đạo sư cao
thượng lấy làm hoan hỷ được biết sự thành công rực rỡ của người đệ tử hoàng
phái đặc sắc của mình. nhưng không như vị đạo sư trước, đạo sĩ Uddaka Ramaputta
mời Ngài nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm dạy dỗ hàng môn đệ:
"Hỡi
này Đạo Hữu, tôi lấy làm hoan hỷ. Thật vậy, tôi vô cùng hoan hỷ được gặp một
người bạn đồng tu tài đức đáng tôn kính như Đạo Hữu. Giáo lý mà Rama đã hiểu
biết, Đạo Hữu cũng hiểu. Giáo lý mà Đạo Hữu hiểu, Rama cũng đã hiểu biết. Rama
đã như thế nào thì hôm nay Đạo Hữu cũng như thế ấy. Ngày nay Đạo Hữu như thế
nào thì Rama đã như thế ấy. Vậy, hỡi này Đạo Hữu, hãy ở lại đây, Đạo Hữu sẽ dẫn
dắt nhóm đạo sĩ này".
Tuy nhiên
Đạo Sĩ Gotama cảm thấy rằng đó cũng chưa phải là mục tiêu cứu cánh. Ngài đã
hoàn toàn chế ngự, làm chủ tâm mình, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn còn ở mãi xa.
Ngài đang tìm con đường Niết Bàn tức là tuyệt đối siêu thoát ra khỏi vòng phiền
não trầm luân và tận diệt mọi hình thức ái dục. Không thỏa mãn với phương pháp
tu tập của Ramaputta, Ngài lại ra đi.
Ngài nhận thấy
rằng không ai có đủ khả năng để dẫn dắt mình thành tựu mục tiêu vì tất cả đều chưa thoát ra khỏi
vòng vô minh. Từ đó Ngài không tìm sự giúp đỡ từ bên ngoài nữa.
Chân lý và sự vắng lặng chỉ tìm
được ở bên trong chúng ta.
CHÚ THÍCH
CHÚ THÍCH
1 . Anguttara Nikaya, Tăng
Nhứt A Hàm, phần I, XIII, trang 22
2 . Trùng với tháng Vesakha
(Pali), hay Vaisakha (Sanskrit). Tiếng Sinhala là Vesak.
3 . Không giống như kỷ nguyên
Thiên Chúa, Phật Lịch khởi đầu ngày Đức Phật Nhập Đại Niết Bàn (viên tịch), vào
năm 543 trước Dương Lịch, chớ không phải ngày Bồ Tát đản sanh.
4 . Một thạch trụ do Vua Asoka
(A Dục) dựng lên nơi đây vẫn còn.
5 . Địa điểm của Kapilavatthu
được nhận ra là Bhuila (Bhulya) trong quận Basti cách Bengal 3 cây số và nằm
vào hướng Tây Bắc nhà ga xe lửa Babuan.
6 . Xem bảng gia phả.
7 . Gotama (Cồ Đàm) là họ, và
Sakya (Thích Ca) là tên chủng tộc của Đức Phật. Tục truyền rằng do âm mưu bất
chính của bà mẹ ghẻ, những người con của Vua Okkaka Mahasammata bị lưu đày.
Trong cuộc đi bất định ấy, các hoàng tử đến chân núi Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn)
và tại đây, gặp nhà hiền triết Kapila. Do lời khuyên của vị này, các hoàng tử sáng
lập thành Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ), có nghĩa là nơi chốn của Kapila. Khi nghe
được công trình của các con, Vua Okkaka thốt lên rằng: "Sakya vata bho
rajakumara" - Các hoàng tử cao quý này quả thật có khả năng. Từ đó dòng
dõi và vương quốc mà các hoàng tử sáng lập lấy tên là Sakya (Thích Ca).
Vương quốc của dòng Thích Ca
nằm vào phía Nam xứ Nepal và mở rộng hơn xứ Oudh ngày nay nhiều. (Xem E.J.
Thomas, Life of Buddha, trang 6)
8 . Xem quyển Buddhims in
Translation, tác giả Waren, trang 49, Chú Giải Túc Sanh Truyện.
Người cháu của đạo sĩ Asita
là Nalaka, xuất gia theo lời khuyên của đạo sĩ, và khi hoàng tử đắc Quả Phật,
Nalaka đến nghe Ngài thuyết giảng và đắc Quả A La Hán. (Xem Nalaka Sutta, Sutta
Nipata, trang 131).
9 . Arupa-lokas là những cảnh
giới Vô Sắc mà người đắc những tầng Thiền Vô Sắc (Arupa Jhana) sẽ tái sanh vào.
10 . Sanskrit là Siddharta
Gautama.
11 . Về sau, khi nghe tin Thái
Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) thoát ly thế tục, chính vị đạo sĩ Kondanna (Kiều Trần
Như) này cũng ra đi, cùng với bốn người con của những vị trong bảy vị Bà La Môn
khác, theo thọ giáo với Đạo Sĩ Gotama. Xem Chương 6.
12 . Xem Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, Maha Saccaka
Sutta, số 36.
13 . Sơ Thiền, tầng Thiền (Jhana) thứ nhất, là một
trạng thái tâm phát triển khá cao, nhờ
an trụ vững chắc.
14 . Công Chúa Yasodhara cũng được gọi là
Bhaddakaccana, Bimba Rahulamata.
15 . Kasi là một tỉnh ở miền Trung Ấn Độ nổi tiếng có
nhiều loại hàng lụa tốt. Tỉnh lỵ của Kasi là Benares ngày nay.
16 . Anguttara Nikaya (Tăng Nhứt A Hàm), phần 1, trang
145. Gradual Sayings, phần 1, trang 128.
17 . Majjhima Nikaya (Trung A Hàm), Phần 1,
Ariyapariyesana Sutta, số 26, trang 163.
18 . Majjhima Nikaya (Trung A Hàm), Phần 1, Mahasaccaka
Sutta, số 36.
19 . "Thấy bốn cảnh tượng, ta lên ngựa ra
đi..." Buddhavamsa, XXVI, trang 65.
20 . Rahula, có nghĩa bị buộc hay bị cột (La) bởi một
sợi dây (Rahu).
21 . Tầng Thiền Vô Sắc (Arupa Jhana) thứ ba.
22 . Tầng Thiền Vô Sắc (Arupa Jhana) thứ tư.
Nguồn: sách "Đức Phật và Phật pháp" (phần 1: Đức Phật; mục Từ đản sanh đến xuất gia)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét