Vài Nhận Xét về Kinh Chuyển Pháp Luân
1. Phật Giáo căn cứ trên kinh
nghiệm bản thân. như vậy, Phật Giáo hợp lý, không phải là một lý thuyết chỉ dựa
trên suy niệm và luận lý suông.
2. Đức Phật tránh xa những hệ
thống tư tưởng có thế lực thời bấy giờ và trình bày một "Trung Đạo",
hoàn toàn do Ngài tìm ra chớ không dựa vào lập luận của ai.
3. Phật Giáo là một con đường
hay Đạo (magga).
4. Kiến thức thích hợp với lý
trí là điểm then chốt của Phật Giáo.
5. Đức tin mù quáng bị loại trừ, không còn chỗ đứng
trong Phật Giáo.
6.
Phật Giáo nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thực hành, thay vì chú trọng
đến tín ngưỡng và giáo điều. Tin tưởng suông vào giáo điều không thể dẫn đến
giải thoát.
7. Nghi thức và
cúng tế, được xem là quan trọng trong kinh Phệ Đà (Veda), không có vai trò
trong Phật Giáo.
8. Không có Thần Linh để con
người phải khép nép kính sợ.
9. Không có
giai cấp trung gian giữa người và Thần Linh để con người phải rụt rè.
10. Giới (sila),
Định (samadhi), Tuệ (panna) là chánh yếu để thành tựu mục tiêu - Niết Bàn.
11. Nền tảng của
Phật Giáo là bốn Chân Lý (Tứ Diệu Đế) có thể kiểm nhận bằng kinh nghiệm.
12. Tứ Diệu Đế dính liền với con người.
13.
Bốn Chân Lý ấy do chính Đức Phật khám phá và Ngài đã tìm ra một mình,
không nhờ ai. Chính câu Phật ngôn là: "Bốn Chân Lý này chưa từng được
nghe".
14. Đã là Chân Lý thì không thể
biến đổi với thời gian.
15. Khổ Đế, chân lý đầu tiên, đề
cập đến những thành phần cấu tạo bản ngã, hay cái được gọi là cá nhân, và những
giai đoạn khác nhau trong đời sống. Các thành phần này cần phải được phân tách,
xem xét tỉ mỉ và quan sát. Sự quan
sát này dẫn đến hiểu biết mình một cách chân
chính.
16. Thấu triệt Chân Lý thứ nhất
(Khổ Đế) một cách hợp lý đưa đến tận diệt nguyên nhân của Khổ, Chân Lý thứ nhì.
Đế này đề cập đến thái độ tâm lý của một người thông thường đối với ngoại cảnh.
17.
Chân Lý thứ nhì (Tập Đế) có liên quan đến một năng lực hùng hậu luôn
luôn ngủ ngầm bên trong mỗi người.
18.
Chính năng lực tinh thần hùng hậu ấy - ái dục - là nguyên nhân đưa đến
tất cả những điều bất hạnh trong đời sống.
19.
Tập Đế đề cập một cách gián tiếp đến những kiếp sống quá khứ, hiện tại
và tương ai.
20.
Như vậy, sự hiện hữu của chuỗi dài những kiếp sinh tồn đã được Đức Phật
biện minh.
21. Do đó, lý
nghiệp báo, một hệ luận của thuyết tái sanh, cùng một lúc, cũng được bao hàm đề
cập đến.
22. Hai Chân Lý đầu tiên là tại
thế, thuộc về thế gian (lokiya). Chân Lý thứ ba - chấm dứt đau khổ - mặc dầu
tùy thuộc nơi ta, là siêu thế (lokuttara) và vượt hẳn ra ngoài phạm vì luân lý.
23. Đế thứ ba - thuần túy là sự
tự giác - là một pháp (dhamma) phải được thấu triệt bằng nhãn quan tinh thần (sacchikatabba).
24.
Chân Lý này - Diệt Đế - phải được chứng ngộ bằng sự siêu thoát hoàn
toàn. Đây không phải là trường hợp từ khước những trần cảnh bên ngoài, mà là
dứt bỏ mọi luyến ái ở bên trong đối với thế gian bên ngoài.
25. Diệt Đế được thành tựu bằng
cách tận diệt trọn vẹn mọi luyến ái. Nhưng phải ghi nhận rằng nếu chỉ có một
việc là tận diệt năng lực tinh thần ấy (luyến ái) thì không đủ để chứng ngộ
Niết Bàn, Chân Lý thứ ba, vì như thế, Niết Bàn sẽ có nghĩa là hư vô. Tuy nhiên,
đạo Quả phải được thành đạt bằng cách tận diệt năng lực ấy vì chính nó trói
buộc chúng sanh vào thế gian (tam giới: Dục, Sắc và Vô Sắc Giới).
26. Niết Bàn không phải được tạo
nên (uppadetabba) mà phải được đạt
đến (pattaba). Niết Bàn có thể được thành tựu ngay trong kiếp sống hiện tại
này. Như vậy, có thể hiểu rằng mặc dầu tái sanh là giáo lý chánh yếu trong Phật
Giáo, mục tiêu cứu cánh của Phật Giáo là chấm dứt tái sanh - không tùy thuộc ở
tương lai, vì có thể thành tựu trong kiếp sống hiện tiền.
27. Đế thứ ba phải được thành
tựu bằng cách trau dồi và phát triển đế thứ
tư.
28. Để tận diệt
một năng lực hùng mạnh (ái dục) cần phải vận dụng và phát triển tám yếu tố công
hiệu (Bát Chánh Đạo).
29. Tất cả tám yếu tố đều thuộc
về tinh thần.
30. Tám năng lực
tinh thần hùng mạnh và có tánh cách thiện, phải được tập trung để đánh đổ một
năng lực bất thiện dai dẳng ngủ ngầm bên trong
ta.
31. Tuyệt đối tinh khiết, hoàn
toàn thoát ra khỏi mọi tiến trình sanh tử triền miên, một cái tâm không còn
vướng chút ô nhiễm, trạng thái bất diệt (amata), là những phước lành đi kèm
theo cuộc chiến thắng vĩ đại này.
32. Có phải
chăng sự giải thoát này là hoàn hảo hay tuyệt đối tinh khiết? Quan điểm sau cùng là thích đáng hơn.
33. Trong mỗi
trường hợp, có thể nêu lên một câu hỏi: Hoàn hảo là gì? Tuyệt đối tinh khiết là gì?
Không có một
chúng sanh hay một thực thể thuần nhất và trường tồn trong Phật Giáo mà chỉ có
một luồng tâm xem như một dòng nước luôn luôn trôi chảy.
Như vậy, đúng hơn, ta phải nói rằng luồng tâm đã được thanh lọc, trở nên
hoàn toàn tinh khiết bằng cách tận diệt và loại trừ mọi ô nhiễm.
XIN ĐỌC NGUYÊN VĂN BÀI KINH
Dhammacakkappavattana Sutta
(Kinh Chuyển Pháp Luân )
Lúc ấy tôi có nghe như thế này:
Một thời nọ,
lúc Đức Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Giả 73, xứ Isipatana 74,
gần Benares, Ngài dạy năm vị tỳ khưu như sau:
"Hỡi
nầy các Tỳ Khưu, có hai cực đoan (anta) mà hàng
xuất gia (pabbajitena) phải tránh:
1.- Sự dể duôi trong dục lạc - là thấp hèn, thô bỉ, phàm tục, không xứng
phẩm hạnh của bậc thánh nhân, và vô ích.
2.- Sự thiết tha gắn bó trong lối tu khổ hạnh - là đau khổ, không xứng
phẩm hạnh của bậc thánh nhân, và vô ích.
Từ bỏ cả
hai cực đoan ấy, Như Lai 75 đã chứng ngộ "Trung Đạo"
(Majjhima Patipada), là con đường đem lại nhãn quan (cakkhu) và tri kiến (nana)
và đưa đến an tịnh (vupasamaya) 76, trí tuệ cao siêu (abhinnaya) 77,
giác ngộ (sambhodhaya) 78, và Niết
Bàn.
"Hởi nầy
các Tỳ Khưu, con đường Trung Đạo mà Như
Lai đã chứng ngộ, con đường đem lại nhãn quan, tri kiến và đưa đến an tịnh, trí
tuệ cao siêu, giác ngộ và Niết Bàn là gì?
Đó chính là
Bát Chánh Đạo (con đường có tám chi) - là Chánh Kiến (samma ditthi), Chánh Tư
Duy (samma samkappa), Chánh Ngữ (samma vaca),
Chánh Nghiệp
(samma kammanta), Chánh Mạng (samma ajiva), Chánh Tinh Tấn (samma vayama),
Chánh Niệm (samma sati), và Chánh Định (samma samadhi). Hỡi này các Tỳ Khưu, đó
là "Trung Đạo" mà Như Lai đã chứng ngộ".
(Đức Phật giảng tiếp):
"Hỡi này các Tỳ Khưu, bây giờ, đây là Chân Lý Thâm Diệu về sự Khổ
(dukkha-ariya-sacca, Khổ thánh đế):
"Sanh
là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sống chung với người mình không
ưa thích là khổ, xa lìa những người thân yêu là khổ, mong muốn mà không được là
khổ, tóm lại, chấp thân ngũ uẩn là khổ." 79
Bây giờ, hỡi
này các Tỳ Khưu, đây là Chân Lý Thâm Diệu về Nguồn Gốc của Đau Khổ
(dukkha-samudaya-ariyasacca, Tập khổ thánh đế). Chính Ái Dục là nguyên nhân đưa
đến sự tái sanh (ponobhavika).
Ái, hợp với
tâm thiết tha khao khát, bám níu cái này hay cái kia (đời sống). Chính là Ái,
đeo níu theo nhục dục ngũ trần (kamatanha), ái đeo níu theo sự sinh tồn
(bhavatanha, sanh ái, luyến ái với ý tưởng cho rằng vạn vật là trường tồn vĩnh
cửu), và ái, đeo níu theo sự không sinh tồn (vibhavatanha, vô sanh ái, luyến ái
với ý tưởng cho rằng sau cái chết là hư vô).
Bây giờ, hỡi
này các Tỳ Khưu, đây là Chân Lý Thâm Diệu về Sự Diệt Khổ
(dukkha-nirodha-ariyasacca, Diệt khổ thánh đế). Đó là xa lánh trọn vẹn và tận
diệt chính tâm ái dục ấy. Đó là sự rời bỏ, sự từ khước, sự thoát ly và sự tách
rời ra khỏi tâm ái dục.
Bây giờ, hỡi
này các Tỳ Khưu, đây là Chân Lý Thâm Diệu về Con Đường dẫn đến sự Diệt Khổ
(dukkha-nirodha-gamini-patipada-ariya-sacca, Đạo diệt khổ thánh đế).
Đó là Bát Chánh Đạo: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp,
Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định
---o0o---
-I- (1) "Đây là Khổ Thánh Đế"
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước
kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như
Lai.
(2) "Khổ Thánh Đế này phải
được nhận thức (parinneya)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối với
các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát
tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(3) "Khổ Thánh Đế này đã
được nhận thức (parinnata)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối với
các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát
tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
---o0o---
-II- (1) "Đây
là Tập Khổ Thánh Đế."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước
kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như
Lai.
(2) "Tập Khổ Thánh Đế này
phải được tận diệt (pahatabba)."
Như vậy, hỡi các
Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến,
trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(3) "Tập Khổ Thánh Đế này
đã được tận diệt (pahinam)."
Như vậy, hỡi các
Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến,
trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
---o0o---
-III- (1) "Đây
là Diệt Khổ Thánh Đế."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước
kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như
Lai.
(2) "Diệt Khổ Thánh Đế này
phải được chứng ngộ (sacchikatabba)."
Như vậy, hỡi các
Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến,
trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(3) "Diệt Khổ Thánh Đế này
đã được chứng ngộ (sacchikatam)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối với
các pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát
tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
---o0o---
-IV- (1) "Đây
là Đạo Diệt Khổ Thánh Đế"
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được nghe trước
kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát sanh đến Như
Lai.
(2) "Đạo Diệt Khổ Thánh Đế
này phải được phát triển (bhavetabbam)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối với các pháp chưa từng được
nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ và ánh sáng, phát
sanh đến Như Lai.
(3) "Đạo Diệt Khổ Thánh Đế
này đã được phát triển (bhavitam)."
Như vậy, hỡi các Tỳ Khưu, đối với các
pháp chưa từng được nghe trước kia, nhãn quan, tri kiến, trí tuệ, minh sát tuệ
và ánh sáng, phát sanh đến Như Lai.
(Để kết luận thời Pháp, Đức Phật
dạy):
"Hỡi
này các Tỳ Khưu, ngày nào mà tri
kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và
mười hai phương thức 80 chưa được hoàn toàn sáng tỏ thì, cho đến
chừng ấy, Như Lai không xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm
Thiên, giữa các chúng sa môn, bà la môn, Trời và người, rằng Như Lai đã chứng
ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (anuttaram
samma-sambodhim).
Đến khi,
hỡi này các Tỳ Khưu, tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh
đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức, đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ, chỉ
đến chừng ấy, Như Lai mới xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và
Phạm Thiên, giữa các chúng sa môn, bà la môn, Trời và người, rằng Như Lai đã
chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
Và lúc ấy tri
kiến và tuệ giác phát sanh đến Như Lai (nanadassana). Tâm của Như Lai đã hoàn
toàn giải thoát một cách vững chắc, không còn lay chuyển, và đây là kiếp sống
cuối cùng, không còn kiếp sinh tồn nào khác nữa." 81
Đức Phật giảng như thế ấy và các vị tỳ khưu lấy làm hoan hỷ tán dương lời
dạy của Đức Thế Tôn.
Khi Đức
Phật giảng xong thời Pháp, pháp nhãn (Dhammacakkhu) 82 của Ngài
Kondanna (Kiều Trần Như) không còn vướng bụi, hết bợn nhơ, (và Ngài thấy rằng)
"cái gì đã có sanh tức phải hoại diệt."
Lúc Đức Thế
Tôn chuyển Pháp Luân, chư Thiên trên quả địa cầu hoan hô: "Pháp Luân này
quả thật tuyệt diệu! Không có sa môn, bà la môn, chư Thiên, Ma Vương hay Phạm
Thiên nào trên thế gian có thể giảng được. Đức Thế Tôn đã vận chuyển Pháp Luân
này trong vườn Lộc Giã, tại Isipatana, gần Benares (Ba La Nại)."
Nghe như
vậy, chư Thiên ở các cung Trời Tứ Đại Thiên Vương, Đạo Lợi, Dạ Ma, Đấu Xuất Đà,
Hoá Lạc Thiên, Tha Hoá Tự Tại, và chư Phạm Thiên ở cõi Phạm Chúng Thiên, Brahma
Purohita, Đại Phạm Thiên, Thiều Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên, Quang Âm
Thiên, Thiều Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên Biến Tịnh Thiên, Quảng Quả Thiên,
Vô Tưởng Thiên, Vô Phiên Thiên, và chư Phạm Thiên ở cảnh giới hoàn toàn tinh
khiết, cảnh giới trường cửu, thanh tịnh, đẹp đẽ, quang đãng và tối thượng, cũng
đồng thanh hoan hô.
Chính ngay
trong lúc ấy, trong khoảnh khắc ấy, tiếng hoan hô thấu đến cảnh Phạm Thiên.
Mười ngàn thế giới ấy đều chuyển động, lung lay và rung chuyển mạnh mẽ.
Một hào
quang rực rỡ phát chiếu, rọi sáng thế gian, sáng tỏ hơn hào quang của chư Thiên
nhiều. Đức Thế Tôn nói: "Kondanna quả đã chứng ngộ, Kondannna quả đã chứng
ngộ".
Do đó Ngài Kondannna có tên là
Annata Kondannna.
Nguồn: sách ĐỨC PHẬT VÀ PHẬT PHÁP, Tác giả: Ngài Narada
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét