Người học Phật phải lấy NGŨ CĂN làm thành NGŨ LỰC (Tín - Tấn - Niệm - Định - Tuệ) để làm nền tảng cho tu tập. TÍN đứng đầu tiên nên việc có lòng TIN vào Đức Phật và Giáo pháp của Đức Phật cũng cần được xác tín đầu tiên. Vậy cũng nên đọc những bài về Đức Phật để tăng và duy trì đức TÍN. Xin trích một số phần trong sách Đức Phật và Phật pháp để tiện cho người chưa có thời gian đọc sách này.
"Các Đấng Như Lai chỉ là những vị
thầy"-- Kinh Pháp Cú
Đặc Điểm Của Đức Phật
Sau cuộc chiến đấu kỳ diệu phi thường kéo dài sáu năm đăng đẳng, không
có sự hỗ trợ từ bên ngoài và không được sự hướng dẫn của một năng lực siêu phàm
nào, đơn độc một mình và chỉ nương nhờ nơi nỗ lực của chính mình, Đạo Sĩ Gotama
(Cồ Đàm), lúc ấy ba mươi lăm tuổi, tận diệt mọi ô nhiễm, chấm dứt mọi tiến
trình tham ái và chứng ngộ thực tướng của vạn pháp, đã trở thành một vị Phật
(Buddha), Đấng Chánh Biến Tri, bậc Toàn Giác. Kể từ ngày ấy, Ngài là Đức Phật
Cồ Đàm (Buddha Gotama) 36, một trong chuỗi dài những vị Phật đã xuất
hiện trong quá khứ và sẽ xuất hiện trong tương lai.
Không phải khi sanh ra Ngài đã là Phật, mà Ngài trở thành Phật do sự nỗ
lực của mình.
Phạn ngữ
Buddha (Phật) xuất nguyên từ căn "Budh", là hiểu biết hay thức tỉnh.
Gọi là Buddha (Phật) vì Ngài hiểu biết đầy đủ Bốn Chân Lý Thâm Diệu Cao Quý (Tứ Diệu Đế), và từ giấc mơ vô minh Ngài đã thức tỉnh. Chẳng những
hoàn toàn thấu triệt, mà Ngài còn có
đủ khả năng truyền bá giáo lý nên cũng gọi là Samma Sambuddha (Chánh Biến Tri,
âm là Tam- Miệu Tam-Bồ-Đề) để phân biệt với chư Phật Pacceka (Độc Giác, cá
nhân, đơn độc) chỉ thấu triệt giáo lý mà không
thể rọi sáng cho kẻ khác, tự giác nhưng không thể giác tha.
Trước khi thành đạt Đạo Quả Phật, Ngài được gọi là Bồ Tát (Bodhisatta) 37,
có nghĩa là người có nguyện vọng trở thành Phật.
Người muốn
đắc Quả Phật phải trải qua thời kỳ Bồ Tát, một thời kỳ tích cực trau giồi và
phát triển những phẩm hạnh: bố thí, trì giới, từ khước (xuất gia), trí tuệ,
tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, quyết định, tâm từ và tâm xả.
Trong một thời
kỳ chỉ có một đấng Chánh Biến Tri. Cũng như có những loại cây, trọn đời chỉ trổ
ra một bông, một hệ thống thế gian (lokadhatu) chỉ có một đấng Chánh Biến Tri.
Đức Phật là
chúng sanh duy nhất, là nhân vật hy hữu, chỉ thật lâu mới có thể xuất hiện trên
thế gian, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc của chư Thiên
và nhân loại. Tôn vinh Ngài là "Acchariya manussa" vì Ngài là một con
người kỳ diệu lạ thường. Tôn vinh Ngài là "Amatassa data" vì Ngài đã
ban bố tình trạng Bất Diệt. Tôn vinh Ngài là "Varado" vì Ngài là
người đã ban bố tình thương tinh khiết nhất, trí tuệ thâm sâu nhất và chân lý
cao siêu nhất. Cũng tôn vinh Ngài là "Dhammassami" vì Ngài là Pháp
Vương, Chúa của Giáo Pháp (Dhamma).
Như Đức Phật dạy, Ngài là:
"Đấng
Như Lai (Tathagata), bậc Ứng Cúng (Araham), đấng Chánh Biến Tri (Samma
Sambuddha), người đã sanh ra con đường vô sanh, đã sáng tạo con đường chưa được
sáng tạo, đã công bố con đường chưa được công bố, người đã hiểu biết con đường,
người đã mục kích con đường, người đã nhận thức con đường" 38.
Không có vị
thầy nào dạy Đức Phật phương pháp tu học để chứng Đạo Quả Chánh Đẳng Chánh Giác,
"Na me acariyo atthi" 39,
"một đạo sư, ta không có", là chính lời của Đức Phật. Ngài có học với
những vị thầy để hiểu biết thế gian pháp 40 nhưng để đến tầng siêu
thế thì không. Chính Ngài tự lực thành
đạt trí tuệ trực giác.
Nếu Đức Phật
đã nhờ một vị thầy hay một hệ thống tín ngưỡng nào như Ấn Độ Giáo chẳng hạn --
tôn giáo mà Ngài đã trưởng thành
trong ấy -- để phát triển trí tuệ siêu phàm, thì ắt Ngài không thể tự gọi là
"đạo sư vô song" (aham sattha anuttaro) 41. Trong bài Pháp
đầu tiên, Ngài tuyên bố rằng ánh sáng đã rọi rõ cho Ngài trong những việc chưa
từng được nghe.
Trong những
ngày đầu tiên sau khi xuất gia tầm đạo, Ngài cố tìm đến sự hướng dẫn của những
vị thầy lỗi lạc nhất thời bấy giờ, nhưng trong giáo huấn của các vị thầy này
không tìm thấy được điều mong mỏi. Tình thế bắt buộc Ngài phải tự mình suy niệm
và quay trở vào bên trong để tìm Chân Lý. Và Ngài đã tìm ra Chân Lý bên trong
Ngài. Ngài theo dõi đến tận mức thâm sâu nhất của dòng tư tưởng, và chứng ngộ
Chân Lý cùng tột, chưa bao giờ từng được nghe và chưa từng được biết. Tuệ giác
phát sanh từ bên trong và rọi sáng những sự vật mà trước kia Ngài chưa từng nghe thấy.
Vì Ngài đã
thấu triệt tất cả những gì cần được biết và đã nắm được cái chìa khóa mở cửa
vào mọi kiến thức, nên tôn Ngài là Sabbannu, bậc Toàn Giác. Đó là trí tuệ siêu
phàm mà Ngài đã dày công trau giồi, trải qua vô lượng tiền kiếp.
Phật Là Ai?
Ngày nọ có người theo đạo Bà La Môn tên Dona, nhân khi thấy dấu chân
của Đức Phật in dưới cát có những đặc điểm lạ thường, đến gần Ngài và hỏi:
- Phải chăng Ngài là một vị
Trời (Deva)?
- Không, quả thật tôi không
phải là một vị Trời.
- Vậy phải chăng Ngài là một
nhạc công trong cảnh Trời (Gandhabba)?
- Không, tôi không phải là một
nhạc công trong cảnh Trời.
- Vậy Ngài là quỷ Yakka chăng?
- Không, quả thật tôi cũng
không phải là quỷ Yakka.
- Như thế chắc Ngài là người?
- Không, quả thật tôi cũng
không phải là người.
- Vậy, xin cho biết Ngài là ai?
Đức Phật
trả lời rằng Ngài đã tận diệt những pháp trầm luân (hoặc lậu), vốn tạo điều
kiện để tái sanh vào những cảnh Trời, Gandhabba, Yakka hay cảnh người, và thêm:
"Như hoa sen, đẹp đẽ và
dễ mến, Không ô nhiễm bùn dơ nước đục,
Giữa đám bụi
trần, ta không vướng chút bợn nhơ. Như vậy, Ta là Phật." 42
Đức Phật không hề tự xưng là hiện
thân (avatara) của thần Vishnu, một Thần Linh Ấn Độ Giáo mà kinh Bhagavadgita đã ca ngợi một cách huyền
diệu, sanh ra để bảo vệ sự chân chánh, tiêu diệt tội lỗi và để thiết lập
và củng cố đạo lý (Dharma).
Theo lời
dạy của Đức Phật thì có hằng hà sa số chư Thiên (Deva, cũng gọi là những vị
Trời) -- cũng là hạng chúng sanh, còn phải chịu sanh tử luân hồi -- nhưng không
có một Thần Linh Tối Thượng, với quyền lực siêu thế, kiểm soát vận mạng con
người, xuất hiện trên thế gian từng lúc, dùng hình thức người làm phương tiện. 43
Đức Phật cũng
không bao giờ tự gọi là "Đấng Cứu Thế" có quyền năng cứu vớt kẻ khác
bằng chính sự cứu rỗi của mình. Ngài thiết tha kêu gọi những ai hoan hỷ bước
theo dấu chân Ngài không nên ỷ lại nơi người khác mà phải tự mình giải thoát
lấy mình, bởi vì cả hai trong sạch và bợn nhơ, cũng đều tùy thuộc nơi chính
mình. Ta không thể trực tiếp làm cho ai trong sạch hay ô nhiễm. 44
Để minh định
rõ ràng mối tương quan của Ngài đối với hàng môn đệ và để nhấn mạnh tầm quan
trọng của sự kiện tự mình nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm và tự mình nỗ lực kiên
trì, Đức Phật minh bạch dạy rằng:
"Các con phải tự mình nỗ
lực. Các đấng Như Lai chỉ là đạo sư." 45
Đức Phật chỉ
vạch cho ta con đường và phương pháp mà ta
có thể nương theo đó để tự giải thoát ra khỏi mọi khổ đau của vòng sanh tử và
thành tựu mục tiêu cứu cánh. Đi trên
con đường và theo đúng phương pháp cùng không, là phần của người đệ tử chân
thành muốn thoát khỏi những bất hạnh của đời
sống.
"Ỷ lại
nơi kẻ khác để giải thoát cho mình là tiêu cực. Nhưng đảm đang lãnh lấy trách
nhiệm, chỉ tùy thuộc nơi mình để tự giải thoát, quả thật là tích cực."
Tùy thuộc nơi người khác là đem
tất cả cố gắng của chúng ta ra quy hàng.
"Hãy tự xem con là hải đảo của con. Hãy tự xem con là nương tựa của
con. Không nên tìm nương tựa nơi ai khác!" 46
Các lời lẽ có
rất nhiều ý nghĩa kia mà Đức Phật đã dạy trong những ngày sau cùng của Ngài quả
thật mạnh mẽ, nổi bật và cảm kích. Điều này chứng tỏ rằng cố gắng cá nhân là
yếu tố tối cần để thành tựu mục tiêu. Tìm sự cứu rỗi nơi những nhân vật hảo tâm
có quyền năng cứu thế và khát khao ham muốn
hạnh phúc ảo huyền xuyên qua những lời van vái nguyện cầu vô hiệu quả và
nghi thức cúng tế vô nghĩa lý, quả thật là thiển bạc và vô ích.
Đức Phật là
một người như chúng ta. Ngài sanh ra là một người, sống như một người, và từ
giã cõi đời như một người. Mặc dầu là người, Ngài trở thành một người phi
thường, một bậc siêu nhân, do những cá tính đặc biệt duy nhất của Ngài. Đức
Phật đã ân cần nhắc nhở nhiều lần như vậy và không có điểm nào trong đời sống
hoặc trong lời dạy của Ngài để chúng ta lầm
hiểu rằng Ngài là một nhân vật vô sanh bất diệt. Có lời phê bình rằng
lịch sử nhân loại, không hề có vị giáo chủ nào "phi thần linh hơn Đức
Phật, tuy nhiên, cũng không có vị nào có đặc tánh thần linh hơn Đức Phật" 47
Trong thời Ngài còn tại thế, Đức Phật chắc chắn được hàng tín đồ hết lòng
tôn kính, nhưng không bao giờ Ngài tự xưng là Thần Linh.
---o0o---
Tánh Cách Vĩ Đại Của Đức Phật
Thay vì đặt
trên con người một thần linh vạn năng vô hình và cho con người một địa vị khép
nép rụt rè, Đức Phật chứng minh rằng con người có thể thành đạt trí tuệ cao
siêu và Đạo Quả tối thượng do sự cố gắng của chính mình. Và như vậy, Đức Phật
nâng cao phẩm giá con người. Ngài dạy rằng muốn thoát ra khỏi vòng trầm luân
phiền não, chính ta phải tự mình gia công cố gắng chớ không phải phục tùng, tùy
thuộc nơi một thần linh, hay một nhân vật nào làm trung gian giữa ta và vị thần
linh ấy.
Trong thế
gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụ và chạy theo quyền thế, Đức
Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi. Ngài chống đối
tệ đoan phân chia giai cấp trong xã hội -- chỉ làm trở ngại mức độ tiến hoá của
loài người -- và luôn luôn bênh vực công lý, khuyên dạy bình đẳng giữa người và
người. Ngài tuyên bố rằng cánh cửa đưa vào sự thành công và thạnh vượng phải
rộng mở cho tất cả mọi người, ai
cũng như ai,
dầu cao thấp, sang hèn, đạo đức hay tội lỗi, nếu người ấy cố công cải thiện nếp
sống, hướng về con đường trong sạch. Ngài nâng đỡ hoàn cảnh của người phụ nữ,
lúc bấy giờ bị xã hội khinh thường, không những bằng cách nâng phẩm giá của
người đàn bà lên đúng tầm quan trọng, mà còn sáng lập giáo hội đầu tiên trong
lịch sử cho hàng phụ nữ. Cũng lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, Ngài đứng
lên cố gắng đánh đổ chế độ mua bán người làm nô lệ. Ngài bãi bỏ phong tục đem
những con vật xấu số ra giết để cúng tế thần linh và nới rộng tâm Từ, bao trùm
luôn cả loài thú.
Không bao
giờ Đức Phật cưỡng bách tín đồ phải làm nô lệ cho giáo lý của mình hay cho
chính mình. Những ai bước theo dấu chân Ngài đều được tự do tư tưởng. Ngài
khuyên dạy hàng môn đệ không nên nhắm mắt chấp nhận những lời của Ngài chỉ vì
kính nể, tôn trọng, nhưng phải xem xét, nghiên cứu, suy niệm cẩn thận cũng như
người trí tuệ muốn thử vàng, phải "đốt, cắt và chà vào đá".
Đức Phật
nâng đỡ những bà mẹ bạc phước như
Patacara và Kisagotami bằng những lời khuyên lơn an ủi. Ngài tự tay chăm sóc
những người bệnh hoạn cô đơn như Putigatta Tissa Thera. Ngài giúp đỡ người
nghèo đói và bị bỏ rơi, không noi nương tựa như Rajjumala và Sopaka và giải cứu
những vị này khỏi phải chết oan thê thảm. Đức Phật nâng cao đời sống đạo đức
của hạng người tội lỗi sát nhân như Angulimala và hạng gái giang hồ hư hỏng như
Ambapali. Ngài khuyến khích kẻ yếu, đoàn kết người chia rẽ, đem ánh sáng đến
cho người vô minh tăm tối, dắt dẫn kẻ mê muội
lầm đường, nâng đỡ người thấp kém và tăng cao phẩm giá người cao quý. Người
nghèo, người giàu, người lương thiện và người tội lỗi, tất cả đều quý mến Ngài
như nhau. Những bậc vua chúa tàn bạo độc tài và những vì minh quân chánh trực,
những hoàng tử vinh quang hiển hách và những người sống cuộc đời tối tăm, không ai biết đến, những nhà triệu phú
giàu lòng quảng đại, những vị keo kiết bỏn xẻn, những học giả khiêm tốn và
những người kiêu căng tự đắc, hạng gái giang hồ, hạng người làm nghề bẩn thỉu,
hạng sát nhân, hạng người thường bị khinh bỉ, tất cả đều có hưởng những lời
khuyên dạy đầy trí tuệ và từ bi của Đức Phật. Gương lành cao quý của Ngài là
nguồn gợi cảm, là niềm khích lệ cho tất cả. Ngài là vị đạo sư giàu lòng bi mẩn
và rộng lượng khoan hồng hơn tất cả.
Ý chí sắt
đá, trí tuệ cao siêu, lòng bi mẫn vô biên, đức vị tha phục vụ, sự thoát ly chưa
từng có, đời sống gương mẫu, những phương pháp toàn thiện mà Ngài đã áp dụng để
truyền bá giáo lý, và sự thành công tối hậu của Ngài
-- tất cả những yếu tố ấy đã khiến một phần năm nhân loại tôn thờ Ngài là
vị giáo chủ siêu việt nhất tự cổ chí kim.
Để tỏ lòng kính thâm sâu của mình đối với Đức Phật, Sri Radhakrishnan
viết:
"Nơi Đức
Phật Gotama (Cồ Đàm) ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện của người phương
Đông. Ảnh hưởng của Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hy
hữu, cho đến nay không thua kém ảnh hưởng của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch
sử. Mọi người đều sùng kính, tôn Ngài là người đã dựng nên một hệ thống tôn
giáo vô cùng cao thâm huyền diệu. Ngài
thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh của người thiện trí
bởi vì, đứng về phương diện trí thức, chắc chắn Ngài là một trong những bậc vĩ
nhân cao thượng nhất của lịch sử". 48
Trong quyển "Three Greatest Men in History", nhà học giả H. G.
Wells ghi nhận như sau:
"Nơi Đức
Phật ta thấy rõ ràng là một con người giản dị có tâm đạo nhiệt thành, một mình
tự lực phát huy ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống, một con người như mọi
người chớ không phải một nhân vật thần thoại ẩn hiện trong nhiều truyền thuyết
hoang đường. Ngài cũng ban bố cho nhân loại lời kêu gọi có tính cách phổ thông.
Bao nhiêu quan niệm của thế hệ tân thời đều tương hợp với giáo lý ấy. Đức Phật
dạy rằng tất cả những gian lao sầu khổ và bất hạnh trong đời đều do lòng ích kỷ
sanh ra. Trước khi có thể trở nên vắng lặng, con người cần phải ngừng sống cho
giác quan mình. Rồi từ đó, vượt lên trên tất cả mọi người, Ngài sống cuộc đời
siêu nhiên. Năm trăm năm trước Chúa Christ (Ki Tô), xuyên qua nhiều ngôn ngữ
khác nhau, Phật Giáo đã kêu gọi con người nên tự quên mình. Đứng về một vài
phương diện, giữa ta (là người Âu) và những nhu cầu của chúng ta và Phật Giáo,
có nhiều quan điểm gần nhau. Đối với tầm quan trọng của con người trong sự phục
vụ, Ngài tỏ ra sáng suốt hơn, và đối với vấn đề trường tồn bất hoại của kiếp
nhân sinh, Ngài ít lúng túng trong biện thuyết mập mờ hơn Chúa Ki Tô."
Thi sĩ Tagore tôn Ngài là bậc Vĩ Nhân Cao Quý nhất trên
thế gian.
Một triết gia người Đan Mạch, ông Fausboll, tán dương Đức Phật với những
lời lẽ như sau:
"Càng hiểu biết Ngài, tôi
càng quý mến Ngài".
Một tín đồ từ tốn của Đức Phật sẽ
nói:
"Càng hiểu biết Ngài, tôi
càng quý mến Ngài. Càng quý mến Ngài, tôi càng hiểu biết Ngài".
GHI CHÚ:
36 . Hàng tín đồ gọi Ngài là Đức
Phật (Buddha), Đức Thế Tôn (Bhagava), Đức Thiện Thệ (Sugata) v.v... Những người
ở đạo khác gọi Ngài là Tôn Giả Cồ Đàm (Bho Gotama), Sa Môn Cồ Đàm (Samana
Gotama) v.v... Khi đề cập đến mình, Đức Phật dùng danh từ "Như Lai"
(Tathagata) có nghĩa là "người đã đến như vậy", "người đã ra đi
như vậy".
37 . Sanskrit: Bodhisatva. Xem Chương 40 và 41.
38 . Samyutta Nikaya, Tạp A-Hàm phần 3, trang 66;
Kindred Sayings, phần 3, tr.58
39 . Majjhima Nikaya, Trung A-Hàm, Ariyapariyesana
Sutta, số 26
40 . Như Kondanna, Alara Kalama, Uddaka Ramaputta
v.v...
41 . Majjhima Nikaya, Trung A-Hàm, Kinh Ariyapariyesana
Sutta, số 26
42 . Gradual Sayings, phần 2, tr. 44-45. Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A-Hàm,
phần 2, tr. 37.
43 . Tuy nhiên, có những vị đạo
sư Ấn Độ Giáo, để khuyến dụ người Phật tử theo tôn giáo mình, đã sai lầm gọi
Đức Phật là hiện thân của một Thần Linh Ấn Độ Giáo, điều mà Đức Phật đã bác bỏ
từ lúc còn tại tiền.
44 . Pháp Cú, 165: Trong sạch
hay ô nhiễm đều tùy nơi ta. Khong ai làm cho người khác trong sạch được.
45 . Pháp Cú, 276
46 . Digha Nikaya - Trường
A-Hàm, Mahaparinibbana Sutta - Kinh Đại Bát Niết Bàn.
47 . Dwight Goddard - Buddhist
Bible, trang 20.
48 . Gautama The Buddha, trang
1.
Nguồn: sách "Đức Phật và Phật pháp" (phần 1: Đức Phật; mục 3)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét