Người học Phật phải lấy NGŨ CĂN làm thành NGŨ LỰC (Tín - Tấn - Niệm - Định - Tuệ) để làm nền tảng cho tu tập. TÍN đứng đầu tiên nên việc có lòng TIN vào Đức Phật và Giáo pháp của Đức Phật cũng cần được xác tín đầu tiên. Vậy cũng nên đọc những bài về Đức Phật để tăng và duy trì đức TÍN. Xin trích một số phần trong sách Đức Phật và Phật pháp để tiện cho người chưa có thời gian đọc sách này.
Chương này có các mục: Cuộc Chiến Đấu; Thay Đổi Phương Pháp: Tuyệt Thực; Ma Vương Ác Tâm Cám DỗCon Đường "Trung Đạo"Bình Minh Của Chân Lý.
Chương này có các mục: Cuộc Chiến Đấu; Thay Đổi Phương Pháp: Tuyệt Thực; Ma Vương Ác Tâm Cám DỗCon Đường "Trung Đạo"Bình Minh Của Chân Lý.
Cuộc Chiến Đấu
Luôn luôn gặp trở ngại, nhưng Đạo Sĩ Gotama không bao giờ nản chí. Với
tinh thần bất khuất, nay đây mai đó trong xóm Maghada (Ma Kiệt Đà) để tìm trạng
thái Thanh Bình An Lạc và Chân Lý tối thượng. Một ngày kia, Đạo Sĩ đến Uruvela,
thị trấn của xứ Senani. Nơi đây Ngài tìm ra một địa điểm giữa đám rừng tươi
tốt, bên cạnh một dòng sông ngoạn mục, uyển chuyển uốn mình trong lòng hai bãi
cát trắng, không xa có xóm làng thạnh vượng, hằng ngày có thể đến đó trì bình khất
thực. Ngài nghĩ như sau:
"Cảnh vật
quả thật hữu hình, cụm rừng đẹp đẽ, dòng sông thú vị với bãi cát trắng và thôn
xóm không xa. Ta có thể dễ dàng đến đó trì bình. Đối với những mầm non đạo đức
quyết tâm cố gắng hướng đến mục tiêu cao quý, thì đây quả thật là nơi thích
hợp" 23.
Địa điểm thích
nghi với công phu hành thiền. Không khí an lành, cây cỏ sum suê, phong cảnh
xanh tươi. Ngài nhất định lưu lại đây để thành tựu nguyện vọng.
Khi hay tin
Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) từ bỏ đền đài cung điện để ra đi sống đời tu sĩ,
Kondanna (Kiều Trần Như) là vị đạo sĩ Bà La Môn trẻ tuổi đã tiên đoán rằng về
sau thái tử sẽ đắc Quả Phật, cùng với bốn người con của bảy vị đạo sĩ khác tên
Bhaddiya, Vappa, Mahanama và Assaji cũng đi tìm Ngài để tu học.
Thuở bấy giờ
người Ấn Độ rất thiết tha trung thành với các nghi lễ, các hình thức khổ hạnh
và các thể thức cúng tế. Theo sự tin tưởng ấy, nếu không ghép mình vào nếp sống
khắt khe khổ hạnh thì không thể giải thoát. Trưởng thành
trong tín
ngưỡng này, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) và năm anh em Kondanna (Kiều Trần Như) bắt
đầu cuộc chiến đấu phi thường kéo dài sáu năm trường, tự khép mình vào nếp sống
cực kỳ kham khổ cho đến một ngày kia thân hình tráng kiện của Đạo Sĩ Gotama (Cồ
Đàm) chỉ còn là bộ xương bọc da. Càng ép xác khổ thân, Ngài càng lìa xa mục
tiêu.
Nhiều bài kinh
đã ghi chép lời của chính Đức Phật, mô tả đầy đủ sự nỗ lực kiên trì, những
phương pháp khác nhau mà Ngài đã áp dụng , và sự thành công cuối cùng của Ngài,
trong cuộc tranh đấu vạn phần cam go đau khổ này.
Kinh Maha
Saccaka Sutta 24 mô tả hạnh tinh tấn của Bồ Tát như sau: "Lúc
ấy tư tưởng sau đây phát sanh đến tôi:
"Hay là
ta cắn chặt răng lại, ép lưỡi sát vào nắp vọng, rồi dùng tâm (thiện) đè nén,
chế ngự, và tiêu diệt những tư tưởng (bất thiện)!
"Rồi
tôi cắn chặt răng lại, ép lưỡi sát vào nắp vọng, và nỗ lực đè nén, chế ngự, và
tiêu diệt những tư tưởng (bất thiện) bằng tâm (thiện). Lúc tôi chiến đấu như
vậy thì mồ hôi từ trong nách chảy tuôn ra.
'Như người
mạnh nắm lấy đầu hay hai vai một người yếu rồi đè xuống, dùng sức cưỡng bách và
khắc phục, không cho ngóc lên, cũng dường thế ấy, tôi chiến đấu và khắc phục
(những tư tưởng bất thiện).
"Sự
tinh tấn của tôi quả thật kiên trì và bất khuất. Tâm niệm của tôi thật là vững
chắc và không hề chao động. Tuy nhiên, thân tôi mòn mỏi và không an lạc sau khi
cố gắng một cách đau khổ -- thể xác phải chịu khuất phục trước sự nỗ lực kiên
trì. Mặc dầu những cảm giác đau đớn phát sanh đến thân tôi, nó không làm tổn
hại đến tâm tôi chút nào.
"Lúc ấy tôi nghĩ như sau:
Hay ta thử trau giồi pháp hành thiền nín thở!
"Rồi
tôi kiểm soát chặt chẽ hơi-thở-vô và hơi-thở-ra, từ miệng và mũi. Khi tôi kiểm
soát hơi-thở-vô, thở-ra, ở miệng và ở mũi, thì có luồng hơi thoát ra từ lỗ tai,
tạo nên một thứ âm thanh to lớn khác thường. Hơi gió thoát ra từ hai ống thụt
của anh thợ rèn kêu như thế nào thì lúc tôi ngừng thở, luồng hơi từ lỗ tai
thoát ra tạo một âm thanh cũng to như thế ấy.
"Dẫu sao,
hạnh tinh tấn của tôi vẫn kiên trì và bất khuất. Tâm niệm của tôi vẫn vững chắc
và không hề chao động. Tuy nhiên, thân tôi mòn mỏi và không an lạc sau khi cố
gắng một cách đau khổ -- thể xác phải chịu khuất phục trước sự nỗ lực kiên trì.
Mặc dầu những cảm giác đau đớn phát sanh đến thân tôi, nó không làm tổn hại đến
tâm tôi chút nào.
"Rồi tư tưởng sau đây phát
sanh đến tôi: Hay là ta thử trau giồi pháp nín thở!
"Rồi
tôi kiểm soát hơi-thở-vô, thở ra từ miệng, mũi và tai. Lúc ngừng thở bằng
miệng, mũi và tai thì hơi (bị dồn ép) đập mạnh trong đầu tôi. Như có người thật
mạnh khoan vào sọ tôi một lưỡi khoan thật bén, khi tôi ngừng thở, hơi đập vào
đầu tôi cũng làm đau đớn như vậy. Mặc dầu những cảm giác đau đớn như vậy phát
sanh ở thân tôi, nó không ảnh hưởng đến tâm tôi chút nào.
"Lúc ấy tôi tự nghĩ: Hay
ta thử hành pháp thiền nín thở ấy một lần nữa!
"Rồi
tôi kiểm soát hơi-thở-vô, thở-ra từ miệng, mũi và tai. Và lúc tôi ngừng thở,
đầu tôi nghe đau bưng lên. Trạng thái đau đớn kinh khủng lúc bấy giờ giống như
có một lực sĩ dùng dây thừng siết chặt đầu tôi lại. Tuy nhiên, hạnh tinh tấn
của tôi vẫn một mực kiên trì. Những cảm giác đau đớn ấy không gây ảnh hởng đến
tâm tôi.
"Lúc ấy tôi tự nghĩ: Hay
ta thử hành thiền về pháp nín thở một lần nữa!
"Rồi
tôi ngưng thở bằng miệng, mũi và tai. Khi tôi kiểm soát hơi thở như thế ấy thì
một luồng hơi mạnh thọc xuyên qua bụng tôi. Tên đồ tể, thiện nghệ hay mới tập
sự, dùng dao bén rạch một đường trên bụng, làm đau đớn thế nào thì luồng gió
mạnh thọc xuyên qua bụng làm tôi đau đớn dường ấy. Tuy nhiên tôi vẫn một mực
kiên trì tinh tấn. Những cảm giác đau đớn ấy không ảnh hưởng đến tâm tôi.
"Lần nữa
tôi tự nghĩ: Hay ta thử hành thiền thêm về pháp nín thở!
"Rồi
tôi kiểm soát hơi-thở-ra, thở-vào từ miệng, mũi và tai. Và khi nín thở như vậy
tôi cảm giác như có một ngọn lửa to khủng khiếp bừng lên và bao trùm lấy tôi.
Như có người mạnh nắm chặt một người yếu và đặt lên ống lửa than đang cháy đỏ
cho đến lúc hoàn toàn thiêu rụi, lửa thiêu đốt thân tôi lúc ngừng thở cũng nóng
dường thế ấy. Tuy nhiên, tôi vẫn kiên trì tinh tấn. Những cảm giác đau đớn không
gây tổn hại đến tâm tôi.
"Lúc ấy
có những vị Trời thấy tôi vậy thì nói với nhau: Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) đã chết!
Vài vị khác ghi nhận: Đạo Sĩ Gotama chưa chết hẳn, nhưng đang chết dần! Trong
lúc ấy cũng có vị nói: Đạo Sĩ Gotama chưa chết hẳn cũng không phải đang chết
dần. Ngài là một vị A La Hán. Đây là lối sống của một vị A La Hán."
Thay Đổi Phương Pháp: Tuyệt Thực
"Rồi tôi nghĩ: Hay ta thử hành pháp tuyệt thực!
"Lúc ấy
có những vị Trời gần tôi và nói: "Bạch Ngài, xin Ngài chớ nên hành pháp
tuyệt thực. Nếu Ngài tuyệt đối không dùng vật thực nữa thì chúng tôi sẽ rót
trên thân Ngài những chất bổ của cảnh Trời để cho nó thấm vào lỗ chân lông và
nuôi sống Ngài."
"Và tôi
nghĩ: Nếu ta hành pháp tuyệt thực mà các vị Trời lại rót chất bổ của cảnh Trời
để nuôi sống thân này thì quả là một điều gian dối, nên tôi từ chối rằng:
"Điều ấy không cần thiết".
"Lúc ấy tôi suy nghĩ như sau: Hay ta thử dùng chút ít vật thực, mỗi
lần chỉ một chút thôi, một ít nước đậu xanh hay rau cỏ, hay đậu đỏ, hay đậu
trắng.
"Khi mà tôi chỉ dùng thật ít vật thực như thế,
ở thể đặc hay tể lỏng, thì thân tôi trở nên cực kỳ gầy yếu. Vì thiếu vật thực,
những bộ phận lớn và nhỏ trong thân tôi ốm gầy không khác nào những cọng cỏ ống
hay những cây đăng tam thảo. Bàn tọa của tôi chỉ còn bằng cái móng của con lạc
đà. Xương sống tôi cũng như một xâu chuỗi dựng đứng lên và cong vào. Xương sườn
tôi tựa như một cái sườn nhà bị sụp đổ. Trong mắt tôi không khác nào hình ảnh
của những ngôi sao mà ta có thể thấy
dưới một cái giếng sâu. Trái mướp đắng cắt ra lúc còn tươi rồi đem phơi, gió và
nắng làm da mướp teo lại, nhăn nhó và héo tàn thế nào thì da đầu tôi lúc ấy, vì
thiếu chất dinh dưỡng, cũng nhăn nhó và héo tàn như thế ấy. Khi muốn rờ da bụng
thì tôi đụng nhằm xương sống. Và khi muốn rờ xương sống thì tôi lại đụng nhằm
da bụng. Vì thiếu vật thực, da bụng tôi ép sát vào xương sống và, lúc muốn đứng
dậy đi tiểu tiện, thì tôi luống cuống té ngã xuống. Tôi đập nhẹ trên chân, tay
để làm cho thân mình sống lại. Than ôi, lúc đập như thế, lông trên mình tôi lả
tả rơi xuống đất vì đã chết gốc. Thấy tôi như vậy, có người nói: 'Đạo Sĩ Gotama
đen'. Vài người nói: 'Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) không đen mà xanh dương'. Cũng có người nói: 'Đạo Sĩ Gotama không đen mà cũng không xanh dương
mà nâu sậm'. Màu da sáng sủa và trong trẻo của tôi tàn tệ đến như thế ấy
vì thiếu vật thực.
"Rồi tư
tưởng sau đây phát sinh đến tôi: Dầu các đạo sĩ hay các nhà tu khổ hạnh trong
quá khứ đã chịu những cảm giác nhức nhối, đau đớn, dữ dội hay xót xa như thế nào,
thì cũng đến mức này là cùng, không thể hơn nữa. Dầu các đạo sĩ hay các nhà tu khổ hạnh trong tương lai sẽ chịu
những cảm giác nhức nhối, đau đớn, dữ dội hay xót xa thế nào, thì cũng đến mức
này là cùng, không thể hơn. Tuy nhiên, đã trải qua bao nhiêu khắc khổ, khó khăn
và đau đớn mà ta không đạt được điều
chi tốt đẹp, xứng đáng với sự giác nộ cao thượng và trí tuệ vượt hẳn những
trạng thái cao thượng của loài người. Hay là còn con đường nào khác dẫn đến
Giác Ngộ chăng?"
---o0o---
Ma Vương Ác Tâm Cám Dỗ
Ép xác khổ hạnh dưới đủ hình thức, Đạo Sĩ Gotama vẫn không thu hoạch
được kết quả cứu cánh, mà chỉ kiệt
sức. Mặc dầu, nhờ lúc thiếu thời sống trong cảnh đầy đủ ấm no sung túc nên có
sức lực dồi dào và thân hình tráng kiện, nhưng Ngài vẫn thấy không còn chịu
đựng được nữa. Vóc mình đẹp đẽ xưa kia nay đã trở nên gầy còm suy nhược, màu da
vàng tươi đã trở thành xanh lợt. Máu cạn, gân rút, thịt teo, mắt thụt và mờ dần. Ngài chỉ còn là một bộ xương có sự
sống. Nhưng cái chết đã gần kề.
Giữa tình
trạng nguy ngập ấy, trong khi ý chí vững chắc của Ngài ở mức độ cao nhất
(Padhana), trong khi Ngài vẫn ngồi bên bờ sông Neranjara (Ni-liên- thiền) nỗ
lực kiên trì và suy niệm để thành đạt cho được trạng thái châu toàn tuyệt đối
thì Namuci 25 đến gần và nói những lời sau đây 26:
"Hỡi này Đạo Sĩ, người gầy
còm, thân hình tiều tụy, giờ chết đã đến.
"Một ngàn phần (trong thân hình người) đã chết mòn, chỉ còn lại một
phần sống. Hãy sống, hỡi Đạo Sĩ! Sống là hơn. Có sống mới tạo được phước.
"Hãy sống
độc thân và hằng cúng tế Thần Lửa, người sẽ tạo được nhiều phước. Ép mình sống
đời khổ hạnh như thế này để làm gì? Con đường kiên trì nỗ lực quả thật kham
khổ, khó khăn, và không phải dễ thành tựu."
Ma Vương đứng trước mặt Đức Thế Tôn, nói những lời như vậy. Để trả lời, Bồ
Tát dạy:
"Này con người xấu xa quỉ quyệt, thân quyến của tội lỗi và lười
biếng! Ngươi đến đây vì lợi ích riêng của ngươi.
"Đối với ngươi, phước báu nào có giá trị gì, dầu bao nhiêu phước cũng
vô ích. Nhưng bổn phận của ngươi là phải nói như vậy.
"Với niềm
tin vững chắc (saddha), tự kiểm soát tâm chặt chẽ (tapo) 27, tinh
tấn (viriya) và trí tuệ (panna), ta tu hành như vậy. Ta đã quyết tâm như vậy,
sao ngươi còn cật vấn ta về đời sống?
"Gió thổi mãi, một ngày kia cũng có thể làm cạn dòng suối, thì máu
huyết của người tu ép xác khổ hạnh (nhịn ăn, nhịn uống) làm gì khỏi bị khô dần?
"Máu
cạn thì mật khô, thịt cũng hao mòn. Thịt càng hao mòn thì tâm càng thanh tịnh.
Tâm càng an tịnh, càng an trụ, càng sáng suốt, thì tâm định càng vững chắc.
"Lúc
ấy cơ thể ta đau đớn vô cùng. Thể xác càng đau đớn, tâm hồn càng xa lìa tham
ái. Chừng ấy ta biết rõ thế nào là trạng thái trong sạch của một chúng sanh!
"Tham
dục (Kama) là đạo binh số một của ngươi. Đạo binh thứ nhì là Bất Mãn với đời
sống thánh thiện (Arati). Ba là Đói và Khát (Khuppipasa) 28. Bốn là
Ái Dục (Tanha). Năm là Hôn Trầm Dã Dượi (Thina-Middha, uể oải, lười biếng và
hôn mê). Sáu là Sợ Hãi (Bhiru). Bảy là Hoài Nghi (Vicikiccha)
29. Tám là Phỉ
Báng và Cố Chấp (Makkha-Thambha). Chín là Lợi Lộc (Labha), Khen Tặng (Siloka),
Vinh Dự (Sakkara) và Thinh Danh Bất Chánh
(Yasa), và đạo binh số mười là Sự Đánh Cao Quá Mức Giá Trị Của Mình và
Khinh Rẻ Kẻ Khác (Attukkamsanaparavambhana).
"Namuci,
đó là quân đội của ngươi. đó là khách luôn luôn lưu trú bên trong hạng người
xấu xa quỷ quái. Người hèn nhát ươn yếu thì không thắng nổi, nhưng ai chế ngự
được những đạo binh ấy là tìm ra hạnh phúc.
"Ta cột
trên ngọn cờ của ta chùm cỏ Munja 30. Đời sống trên thế gian này rõ
là khốn khổ. Thà ta chết trên chiến trường còn hơn sống mà thất bại! 31
"Kiểm
soát chặt chẽ dòng tư tưởng, và với chánh niệm kiên cố vững chắc, ta sẽ đi bất
định từ nơi này đến nơi khác, rèn luyện một số đông môn đệ.
"Chuyên cần tinh tấn, quyết định, và thực hành giáo huấn của ta --
không quan tâm đến ngươi - những vị ấy sẽ đến tận nơi mà không còn đau
khổ."
Với những lời cương quyết ấy, Đạo Sĩ Gotama cả thắng Ma Vương Tâm Ác, và
nhất định thành đạt cho kỳ được mục tiêu, Đạo Quả Phật.
Con Đường "Trung Đạo"
Sau sáu năm tự bản thân kinh nghiệm, Đạo Sĩ Gotama đã nhận thức chắc
chắn rằng lối tu khổ hạnh không thể đem lại lợi ích, mặc dầu các triết gia và
các tu sĩ thời bấy giờ quả quyết rằng đó là nếp sống tối cần thiết để đạt đến
cứu cánh. Thấy rằng khổ hạnh chỉ làm giảm suy trí thức và mệt mỏi tinh thần,
Ngài liền dứt khoát từ bỏ lối tu ấy, cũng như trước kia đã từ bỏ lối sống lợi
dưỡng, chỉ làm chậm trễ tiến bộ khoa học, và chọn con đường "Trung
Đạo" mà sau sẽ trở thành một
trong những đặc điểm của Giáo Lý Ngài.
Hồi tưởng
lại khi còn thơ ấu, vào một buổi lễ Hạ Điền kia, trong lúc vua cha và mọi người
đang chăm chú cử hành các cuộc vui, thì Ngài đã ngồi thế nào dưới tàng bóng mát
mẻ của một cây trâm, tham thiền, nhập định và đắc Sơ Thiền.
Đó mới thật là con đường dẫn
đến Giác Ngộ.
Ngài nhận
định rằng vơí tấm thân mòn mỏi không thể hoàn toàn sáng suốt, một sức khỏe
thích nghi rất cần thiết để thành đạt tiến bộ tinh thần, nên quyết định không
nhịn đói nữa mà dùng những vật thực
thô sơ.
Năm vị tu
sĩ thân tín bấy giờ lâu nay theo hầu cận với bao nhiêu hy vọng, nay thấy Ngài
đột ngột thay đổi phương pháp tu tập như vậy thì lấy làm thối chí, bỏ đi
Isipatana (Vườn Lộc Giả) và nói rằng:
"Đạo Sĩ Cồ Đàm đã trở lại ưa thích xa hoa, đã ngừng cố gắng, và đã
quay về đời sống lợi dưỡng."
Trong lúc
quyết định quan trọng như vậy, sự hỗ trợ bên ngoài thật vô cùng khẩn thiết.
Chính ngay lúc ấy, những người bạn đồng tu lại bỏ ra đi. Nhưng Ngài không ngã
lòng. Một mình, trong cảnh cô đơn, giữa chốn rừng sâu, các
bậc vĩ nhân thường chứng ngộ những chân lý cao sâu thâm diệu và giải quyết
được những vấn đề phức tạp, khó khăn.
---o0o---
Bình Minh Của Chân Lý
Sau khi độ một vài vật thực thô sơ, Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) phục hồi
sức khỏe và dễ dàng nhập Sơ Thiền (Jhana), tầng thiền mà Ngài đã thành tựu trong buổi thiếu thời 32. Rồi từ
đó dần dần Ngài nhập Nhị Thiền rồi Tam và Tứ Thiền. Khi nhập thiền, tâm Ngài an
trụ hoàn toàn vững chắc vào một điểm, lắng dịu trong sáng như mặt gương lau
chùi bóng láng, và mọi sự vật đều có thể phản chiếu một cách vô cùng trung
thực. Rồi tư tưởng trở nên lắng dịu, tinh khiết, trong sạch, không còn ô nhiễm,
dễ uốn nắn, giác tỉnh, vững chắc và không thể lay chuyển, Ngài hướng tâm về tuệ
giác có liên quan đến trạng thái
"Hồi Nhớ Những Kiếp Quá Khứ" (Pubbe-nivasanussati Nana, Túc Mạng
Minh, tuệ hồi nhớ tiền kiếp).
Ngài nhớ
lại nhiều kiếp sống qúa khứ như thế này: Đầu tiên một kiếp, hai kiếp, rồi ba
kiếp, rồi bốn, năm, mười, hai mươi, đến năm mươi, rồi một trăm, một ngàn, một
trăm ngàn, rồi sự phân tán của nhiều chu kỳ thế gian, rồi sự phát triển của
nhiều chu kỳ thế gian, rồi cả hai, sự phân tán và sự phát triển của nhiều chu
kỳ thế gian. Ở đây Ngài tên gì, sanh trưởng trong gia đình nào, giai cấp nào,
kiêng cữ điều gì, vui thích và đau khổ thế nào, và chết cách nào. Từ cảnh ấy ra
đi, Ngài tái sanh vào cảnh nào, có tên gì, sanh trưởng trong gia đình nào, giai
cấp nào, kiêng cữ điều gì, vui thích và đau khổ thế nào và chết cách nào. Rồi
từ đó ra đi, tái sanh vào cảnh này.
Như thế ấy Ngài hồi nhớ cách thức tái sanh và nhiều chi tiết về những kiếp
sống quá khứ.
Đây, hẳn vậy, là Tuệ Giác Đầu Tiên mà Ngài chứng ngộ vào lúc canh một, đêm
Thành Đạo.
Đã phá tan
lớp vô minh có liên quan đến qúa khứ, Ngài hướng tâm thanh tịnh về tuệ
"Tri Giác hiện tượng Diệt và Sanh của Chúng Sanh" (Cutupapata Nana,
Thiên Nhãn Minh).
Với tuệ nhãn tinh khiết và siêu phàm, Ngài nhận thấy chúng sanh chết từ
kiếp này tái sanh vào một kiếp sống khác.
Ngài chứng
kiến cảnh tượng kẻ sang người hèn, kẻ đẹp người xấu, kẻ hạnh phúc người đau
khổ, tất cả đều trải qua hiện tượng diệt và sanh, tùy hành vi tạo tác của mỗi
người.
Ngài biết
rằng người này, do hành động, lời nói và tư tưởng bất thiện, nguyền rủa bậc
Thiện Trí Cao Thượng, tin tưởng không chân chánh và có nếp sống của người tà
kiến, sau khi thể xác phân tán và lìa đời, đã tái sanh vào những trạng thái bất hạnh.
Ngài biết
rằng những người kia, do hành động, lời nói và tư tưởng tốt đẹp, biết tôn trọng
bậc Thiện Trí Cao Thượng, có đức tin chân chánh và có nếp sống của người có
chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, đã tái sanh vào những cảnh Trời an vui hạnh phúc.
Như vậy, với Thiên Nhãn Minh, Ngài mục kích tình trạng phân tán và cấu hợp
trở lại của chúng sanh.
Đây, hẳn vậy, là Tuệ Giác Thứ Nhì mà Ngài
chứng ngộ trong canh giữa, đêm Thành Đạo.
Đã phá tan
lớp vô minh có liên quan đến tương lai, Ngài hướng tâm thanh tịnh về "Tuệ
Hiểu Biết sự Chấm Dứt các pháp Trầm Luân" (Asavakkhaya Nana, Lậu Tận Minh)
33. Đúng với thực tại, Ngài nhận thức: "Đây là Phiền Não",
"Đây là sự Chấm Dứt Phiền Não". "Đây là Con Đường dẫn chấm dứt
Phiền Não".
Cùng một thế
ấy, đúng với thực tại Ngài nhận định: "Đây là Ô Nhiễm". " Đây là
sự Chấm Dứt Ô Nhiễm". "Đây là con đường dẫn đến Chấm Dứt Ô
Nhiễm".
Nhận thức
như thế, tâm Ngài giải thoát ra khỏi dục lậu (ô nhiễm của dục vọng), hữu lậu (ô
nhiễm của sự luyến ái đời sống) và vô minh lậu (ô nhiễm của vô minh).
Được giải
thoát, Ngài biết rằng: "Ta đã được giải thoát" 34 và Ngài
nhận thức: "Tái sanh đã chấm dứt, đời sống Phạm Hạnh đã được viên mãn, đã
làm xong những việc cần phải làm, không còn trở lại trạng thái này nữa." 35
Đây là Tuệ Giác Thứ Ba mà Ngài
chứng ngộ trong canh ba, đêm Thành Đạo.
Màn vô minh đã
được giải tỏa và trí tuệ phát sanh. Đêm tối đã tan và ánh sáng đến.
CHÚ THÍCH
23 . Majjhima Nikaya, Trung A -Hàm, Ariya-Pariyesana
Sutta, số 26, Tập I, trang 166.
24 . Majjhima Nikaya - Trung A-Hàm, số 36, Tập I, trang
242.
25 . Namuci là một tên khác của Ma Vương (Mara). Theo
kinh sách, có năm loại Ma Vương là: 1. Trời Ma Vương (Devaputta), Khát vọng
(Kilesa), 3. Hành (Abhisamkhara),
4. Uẩn
(Khandha), và 5. Tử Thần (Maccu).
26 . Sutta Nipata, Padhana Suta, trang 74.
27 . Tapo - trong bản thảo của Pali Text Society, danh
từ này viết là "Tato"
28 . Đói và Khát, do sự tự nguyện nghèo khổ.
29 . Hoài nghi ở đây hàm ý là sự bất định về mục tiêu.
Xem Chương 37
30 . Thời bấy giờ, trước khi ra trận người chiến sĩ cột
trên ngọn giáo của mình chùm cỏ Munja, tỏ rằng không bao giờ lùi bước trước
quân địch.
31 . Sangame me matam seyyo - Yan ce jive parajito.
32 . Jhana, xem chú thích về Lễ Hạ Điền ở Chương 1
33 . Asavas, pháp trầm luân, là
những hoặc lậu, hay bợn nhơ trong tâm. Nhìn về phương diện cảnh giới, là những
ô nhiễm ngủ ngầm trong tâm, trôi chảy theo luồng nghiệp cho đến các cảnh giới
cao nhất. Nhìn về phương diện luồng tâm, là những ô nhiễm ngủ ngầm, trôi chảy
theo luồng nghiệp đến trạng thái Gotrabhu (chuyển tánh). Có bốn pháp trầm luân
là: Dục (Kama), Hữu (Bhava), Tà Kiến (Ditthi) và Vô Minh (Avijja). Đoạn kinh
này chỉ đề cập đến ba pháp hoặc lậu mà thôi. Ở đây, Bhava hay Hữu có nghĩa là ý
muốn tái sanh vào những cảnh giới Sắc và Vô Sắc (Rupa và Arupa Bhava).
34 . Vimutto'smi
35 .
Khina jati, vusitam brahmacariyam, katam karaniyam, naparam itthattaya.
Nguồn: sách "Đức Phật và Phật pháp" (phần 2: Đức Phật; mục 2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét