Trích LỜI NGƯỜI DỊCH (sư Pháp Thông) trong cuốn CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT ĐỂ CHỨNG NGỘ NIẾT-BÀN
....
Đối với pháp hành Phật giáo hiện thời, danh-sắc
thường chỉ được nói đến theo khái niệm phổ quát là thân
và
tâm hay vật chất
và tinh thần. Tuy
nhiên , theo
Abhidhamma diễn đạt danh-sắc(nāma∙rūpa) theo Chân
Thể Tuyệt Đối, sắc tối hậu (rūpa)
gồm 28 loại sắc ,danh tối hậu (nāma)
gồm 81 loại tâm (trừ 8 tâm siêu thế) và 52 loại tâm sở (cetasika) cùng phối hợp với chúng . Việc biết rõ danh-sắc tức hành giả cần phải thấu
đạt tất cả theo Chân Thể Tuyệt Đối bằng thắng
trí tự thân. Ngoài ra , vị ấy cũng cần phải rõ biết các nhân
tác
thành chúng để quán với ba loại đạt tri. Sự thấy và biết như vậy mới được xem là như thật tri kiến.
Thành thật
mà nói, để đạt đến loại tri kiến như vậy mà không có nền tảng của giới
và sức mạnh của định,
nhất là trong thời buổi này, thì liệu đây có phải là một điều khả thi.
Tuy nhiên, tại rừng thiền Pa-Auk Tawya , quán thừa (vipassanāyāna) vẫn được chỉ dạy qua việc thực hành thiền tứ đại. Với ánh sáng của mức định thiền tứ đại (sát-na định) , một số hành giả có thể tuệ tri được danh-sắc ,cùng với các nhân của chúng. Bởi thế, mà trong Kinh Định (Samādhi Sutta) thuộc Tương Ưng Bộ, Đức Phật nói:
Tuy nhiên, tại rừng thiền Pa-Auk Tawya , quán thừa (vipassanāyāna) vẫn được chỉ dạy qua việc thực hành thiền tứ đại. Với ánh sáng của mức định thiền tứ đại (sát-na định) , một số hành giả có thể tuệ tri được danh-sắc ,cùng với các nhân của chúng. Bởi thế, mà trong Kinh Định (Samādhi Sutta) thuộc Tương Ưng Bộ, Đức Phật nói:
“Hãy tu tập định,
này các tỳ khưu,
sau khi tu tập định, vị tỳ khưu sẽ tuệ tri các Pháp
như chúng thực sự là (yathābhūtam pajānati).
“Ðây là Giới, đây là Ðịnh,
đây là Tuệ. Ðịnh
cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu
với Ðịnh sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn.
Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải
thoát hoàn toàn các lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.” (Kinh Đại Niết Bàn).
Riêng đối với Thắng
Pháp (Abhidhamma), trên
thực tế , Đức Phật đã đề cập tầm quan trọng của nó liên hệ đến Chánh Pháp . Trong ‘Đại Kinh Rừng Sừng Bò’ (Mahāgosiṅga sutta
(MN 32)), Tôn giả Sāriputta
có trình bày với Đức Phật như sau :
-Bạch Thế Tôn, được nói vậy, Tôn giả Mahā Moggallāna nói với
con:
"– Ở đây, này Hiền giả Sāriputta, hai
Tỳ–khưu đàm luận
về Abhidhamma (Thắng Pháp
hay A–tỳ–đàm ). Họ
hỏi nhau câu hỏi, và khi được hỏi,
họ trả lời
được với nhau,
chớ không dừng
lại vì không
trả lời được,
và cuộc đàm luận về pháp của họ được
tiếp tục. Này Hiền giả Sāriputta, hạng
Tỳ–khưu như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosiṅga."
– Lành thay Sāriputta! Nếu trả lời cho được chơn chánh,
Moggallāna phải trả lời như vậy. Này Sāriputta, Moggallāna là bậc thuyết về Chánh pháp.
Trong Tạng
Luật, Đại Phẩm
,Chương Trọng Yếu ,Tụng Phẩm
thứ bảy - Mười sáu nhóm năm của
phần “Nên ban phép tu lên bậc trên.”
Đức Phật chỉ ra năm điều kiện,
nếu vị tỳ khưu
không có khả năng đáp ứng đủ thì không được ban phép tu lên bậc trên, không nên nương nhờ, và không
được sa di phục vụ :
“Này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu hội đủ năm điều kiện khác nữa không nên ban phép tu lên bậc trên,
không nên cho nương nhờ,
không nên để cho sa di phục
vụ: Là vị không
có khả năng
để huấn luyện các điều học thuộc về phận sự căn bản, (không
có khả năng)
để hướng dẫn các điều
học thuộc về phần đầu của Phạm hạnh, (không có khả năng) để hướng dẫn về Thắng Pháp (abhidhamma), (không có khả năng)
để hướng dẫn về Thắng
Luật (abhivinaya) , (không có khả năng)
để phân tách
đúng theo Pháp xu hướng tà kiến đã được sanh
khởi cho đệ tử hay học trò. Này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu hội đủ năm điều kiện này không
nên ban phép tu lên bậc trên,
không nên cho nương nhờ, không nên để cho sa di phục
vụ.
Này các Tỳ-khưu…(giống trên)..(có khả năng)
để hướng dẫn về Thắng
Pháp, (có khả năng)
để hướng dẫn về Thắng
Luật, (có khả
năng) để phân
tách đúng theo
Pháp xu hướng
tà kiến đã được sanh
khởi cho đệ tử
hay học trò. Này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu hội đủ năm điều kiện này nên ban phép tu lên bậc trên,
nên cho nương nhờ, nên để cho sa di phục vụ.”
Theo lời
giải thích của ngài Buddhaghosa: Hướng dẫn về Thắng
Pháp là có khả năng hướng
dẫn về sự phân biệt Danh Sắc, và hướng
dẫn về Thắng Luật là hướng dẫn về toàn bộ Tạng Luật (VinA. v, 990).
Mối tương quan
giữa Abhidhamma đối với Pháp
và Luật của Ngài cũng
được nói đến ở ‘Kinh
Sợ Hãi Trong Tương Lai (3) (AN V.VIII.IX)’:
“Lại nữa, này các Tỳ-khưu, các Tỳ-khưu trong tương lai sẽ trở thành
những người thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập. Do thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập,
tuệ không tu tập, khi họ thuyết về Thắng
pháp (Abhidhamma) hay về Quảng thuyết (Trí giải luận –
Vedallakathaṃ), họ rơi
vào hắc pháp,
không có thể giác
ngộ rõ ràng. Này các
Tỳ-khưu, đây là do ô nhiễm Pháp, nên sanh ô nhiễm
Luật; do ô nhiễm
Luật, nên sanh ô nhiễm Pháp.”
Cho nên,
đối với Đức Phật,
Bậc có trí tuệ
thấu suốt vị lai không
bị ngăn che , đã đưa ra cơ sở để đối chiếu, để thọ trì, và để nương tựa cho các hàng hậu thế sau khi Ngài Niết Bàn, đó chính là Kinh và Luật chứ không phải bất kì một ai cả.
Và nếu như những lời dạy từ các bậc dù là “Tăng chúng ở với các
vị Thượng tọa,
với các Thủ chúng”
hay “Tỳ-khưu
Thượng tọa hay
bậc đa văn, gìn giữ truyền
thống, trì pháp,
trì luật, trì pháp yếu..” Tuy nhiên, lại
không nằm trong Kinh và Luật thì chúng phải bị bác bỏ:
“Chắc chắn những lời này không
phải là lời
Thế Tôn, và Tỳ-khưu ấy đã thọ giáo
sai lầm. Và này các Tỳ-khưu, các
Ngươi hãy từ bỏ chúng”…
Và ngược
lại, nếu những
lời dạy ấy hợp với Kinh và Luật, đáp ứng các yếu tố rõ ràng, cụ thể sau khi đối
chiếu thì có thể kết luận:
"Chắc chắn những
lời ấy phải là lời dạy
của Thế Tôn và Tỳ-khưu ấy đã thọ giáo chơn
chánh… các Ngươi hãy thọ trì”.
Ở đây,
Đức Phật chỉ đưa ra hai phạm vi là Kinh và
Luật, nhưng khi Ngài
tuyên bố bậc Đạo Sư sẽ thay Ngài để
lãnh đạo Tăng chúng lại chính là Pháp và Luật:
“Này các Tỳ-khưu, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật sẽ là Đạo
Sư của các Ngươi.”
Vì sao
trong Kinh Điển
Pāḷi ,có lúc Đức Phật chỉ đề cập đến Kinh và Luật,
lúc thì Thắng Pháp và Thắng Luật , lúc thì Pháp
và Luật ?
Lý do là vì, vào thời kỳ của Ngài, Kinh và Thắng Pháp (Abhidhamma) được gộp chung
làm một, Tạng Luật là một. Do vậy thì chỉ có hai là Kinh và Luật hay
Pháp và Luật hay Thắng Pháp và Thắng Luật. Cho đến
sau cuộc kết tập Kinh Điển lần ba,
Kinh và Luật hay Pháp và Luật được phân tách làm Ba Tạng (Tipiṭaka): Tạng Kinh(Suttantapiṭaka), Tạng
Luật (Vinayapiṭaka), và Tạng Thắng Pháp(Abhidhammapiṭaka). Sự phân tách này do bởi Thắng Pháp là một tạng đặc biệt thâm sâu, đồng thời có nhiều pháp uẩn nhất (42.000 pháp uẩn). Do vậy, việc phân tách chúng nhằm để lưu trữ và truyền
tụng dễ dàng hơn. Thế nên, khi liên hệ đến Kinh
và Luật, hay Thắng Pháp và Thắng Luật,
hay Pháp và Luật, hay Tam Tạng ( Kinh - Luật - Thắng Pháp),
tất cả chúng đều tương đương nhau.
Thật sự là, qua Kinh Điển, chúng
ta thấy có rất nhiều
các vị đệ tử Phật chứng
đắc Đạo-Qủa chỉ
qua một thời pháp, hoặc chỉ qua một thoáng minh sát, họ không phải mất công học Abhidhamma, không phải dày công
tu tập định,vv…Tuy nhiên, ngoài Đức
Phật thì không
ai có thể biết được
các tiềm năng
ba la mật,
cũng như quá trình
tu tập cuả các vị ấy ở những kiếp
trước đó như thế nào. Lại
nữa, trước khi quyết định
thuyết pháp độ đời, Đức Phật đã quán xét các hạng người
khác biệt trên thế gian qua ví dụ sau:
“Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng hay hồ sen trắng có một số hoa sen xanh, sen hồng, hay sen trắng sanh ra dưới nước,
lớn lên dưới nước,
không vượt lên khỏi mặt nước,
được nuôi dưỡng
dưới nước. Có một số hoa
sen xanh, sen
hồng hay sen
trắng sanh ra dưới nước,
lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước. Có một
số hoa sen xanh, sen hồng hay
sen trắng sanh ra dưới
nước, lớn lên dưới nước,
vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm
ướt”.
...
Ghi chú:
Chi tiết về PHÁP HÀNH GIỚI có thể xem tại sách NỀN TẢNG PHẬT GIÁO quyển III
Chi tiết về pháp hành thiền định và thiền tuệ của Thiền sư Pa Auk xem TẠI ĐÂY
Chi tiết về Pháp hành Thiền định và Thiền tuệ theo kinh ĐẠI NIỆM XỨ xin xem tại sách ĐẠI NIỆM XỨ của Thiền sư Silananda TẠI ĐÂY
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét