Paññā biểu thị sự hiểu biết phát
sinh thông qua tu tập tâm linh,
soi sáng bản chất thực sự của sự vật và lên đến đỉnh điểm
của tâm thanh tịnh và giải thoát.
Vì lý do này, mặc dù có nhiều hạn chế, tôi tiếp tục sử dụng từ quen thuộc
là “trí tuệ/tuệ
giác (wisdom)”.
Quan điểm
của Bắc truyền
Văn học Phật giáo đương đại thường truyền
tải hai ý tưởng
về paññā vốn đã trở thành gần như tiên
đề trong sự hiểu biết phổ
thông về Phật giáo. Đầu tiên, paññā
là hoàn toàn vượt qua quan niệm và lý luận,
một loại nhận
thức vượt qua tất cả các
qui luật của tư duy logic. Thứ
hai, paññā phát
sinh tự động, thông qua một hành động của hoàn
toàn trực giác,
đột ngột và tức
thời như một ánh chớp rực rỡ của tia sét. Hai
ý tưởng này về
paññā được kết
nối chặt chẽ.
Nếu paññā bất
chấp tất cả qui
luật của tư tưởng, nó không thể được tiếp
cận bằng bất kỳ loại hoạt động khái niệm nào, nhưng
có thể chỉ phát sinh
khi các hoạt động
lý trí, phân
biệt, khái niệm
của tâm bị mất hiệu
lực. Và sự đình chỉ này của mọi khái
niệm, gần giống
như sự phá hủy của một tòa nhà, phải thật nhanh chóng, một băng hoại của
tư tưởng không
được chuẩn bị trước bởi bất kỳ sự thuần thục dần dần của hiểu biết.
Như vậy, trong
sự hiểu biết phổ
thông này về Phật giáo,
paññā bất chấp
tính hợp lý và dễ dàng
trượt vào “sự khôn ngoan
điên rồ”, một cách thức
bất khả tri, dị thường, liên quan đến thế giới nhảy múa trên bờ ranh
mỏng, giữa tính siêu hợp
lý và sự điên cuồng.
Quan điểm của Nam truyền
Ý tưởng như vậy về paññā
hoàn toàn không
tương thích với những lời dạy ghi trong các bộ Nikāya,
vốn luôn luôn đề cao tính
ôn hòa, minh
mẫn và tỉnh táo. Hãy xem xét hai điểm
trên, theo thứ tự ngược lại.
Thứ nhất, khác
xa với tính
phát sinh một cách tự nhiên, paññā trong các bộ kinh Nikāya là rõ ràng có
điều kiện, phát sinh từ một khuôn mẫu của những nguyên nhân và điều kiện.
Thứ hai, paññā
không phải là sự hiểu
biết thuần túy qua trực giác,
nhưng là sự hiểu biết
cẩn thận, tách bạch rằng ở những giai đoạn nhất định nào đó có liên quan
đến các hoạt động khái niệm chính xác. Paññā được hướng đến
các lĩnh vực cụ thể của sự hiểu biết.
Những lĩnh vực
này, được biết đến trong các Chú giải Pāli là “vùng đất của trí tuệ”(paññābhūmi), phải
được thẩm tra kỹ lưỡng
và nắm vững, thông qua sự hiểu biết về khái niệm,
trước khi tuệ quán trực tiếp, không khái niệm,
có thể hoàn
tất hiệu quả công việc của
mình. Để nắm vững chúng,
đòi hỏi phải
có sự phân tích, phân biệt và nhận thức.
Từ khối lượng
lớn lao của các sự kiện, hành giả
phải có khả năng rút ra những mô hình cơ bản, nền tảng cho
tất cả các kinh nghiệm và sử dụng các mô hình này như khuôn
mẫu cho việc suy quán chặt chẻ về kinh nghiệm của mình.
Tôi sẽ nói nhiều hơn về điều này trong
những đoạn sau.
Các cơ sở có điều kiện để phát
triển trí tuệ được quy định
trong cấu trúc ba lớp của sự tu tập trong Phật giáo. Như chúng ta đã thấy, trong
ba học phần của con đường Phật
giáo, giới học hoạt
động như là nền tảng
của tâm định và định học
là nền tảng của tuệ giác. Như vậy, điều kiện tức thời để phát
sinh trí tuệ là tâm định.
Như Đức Phật
thường nói: “Này
các tỳ-khưu, hãy phát triển tâm định. Một người có định tâm, sẽ thấy các sự vật như chúng thực
sự là”. Để “nhìn thấy
sự vật như chúng
thực sự là” là công
việc của trí tuệ; cơ sở tức thời
cho cái thấy chính xác này là tâm định.
Bởi vì tâm định tùy thuộc vào hành động đúng đắn về thân và khẩu, giới học cũng
là một điều kiện cho trí tuệ.
Ghi chú:
Sách "Hợp tuyển những lời dạy cảu Đức Phật từ kinh tạng Pali" có hai bản dịch, (1) của ông Bình AnSon và (2) của Nguyễn Nhật Như Mai.
Nội dung trích trên là từ quyển (1)
Ảnh minh họa bài viết là bìa cuốn (2). Đây cũng là cuốn sách được Sư Tâm Hạnh sử dụng làm cơ sở để giảng loạt bài về PHẬT GIÁO NAM TRUYỀN tại Viện Phật Học Bồ Đề Phật Quốc (Mỹ), có thể xem trên Youtobe TẠI ĐÂY
Doãn Quốc Khoa
Sadhu.
Trả lờiXóa